BÀI 11 : GIÁO HỘI VIỆT NAM
“Nhìn về quá khứ, chúng tôi cảm mến sâu sắc bàn tay nhân lành của Thiên Chúa, đã êm ái và mạnh mẽ hướng dẫn Hội Thánh Người trên đất nước Việt nam của chúng ta. Chúng tôi biết ơn công lao của vô vàn tín hữu đã làm sáng tỏ đức tin và lòng yêu nước của mình”
(Thư chung HĐGMVN 1980, s.17)
“Uống nước nhớ nguồn”. Là Kitô hữu Việt Nam, chúng ta không thể không biết về nguồn cội của mình là thời kỳ các nhà truyền giáo ngoại quốc đến Việt Nam với bao khó khăn hiểm nguy, và các bậc cha ông tiền bối của chúng ta đã đổ máu tử vì đạo để ngày hôm nay chúng ta được thừa hưởng những thành quả tốt đẹp.
1* Những hạt giống Tin Mừng đầu tiên :
Trước Công Nguyên, việc Đông Tây gặp nhau là nhờ con đường tơ lụa mà các thương nhân Châu Âu (Rôma) đã thông thương đến Trung Quốc và Ấn Độ để mua tơ lụa và hương liệu, nhưng con đường này đã bị cản trở khi thế giới Hồi Giáo lớn mạnh vào khoảng thế kỷ XIII. Việc khám phá ra Mỹ Châu năm 1492 của Christophe Colomb đã nối dài bước chân truyền giáo của các thừa sai vượt đại dương đến Việt Nam.
Theo “Khâm Định Việt Sử” (33.6b), chỉ dụ cấm đạo của vua Lê Trang Tôn đã nói đến một thừa sai Tây Phương, tên là I-nê-khu, lén theo đường biển vào truyền giáo tại làng Ninh Cường và Trà Lũ khoảng năm 1533. Tiếp theo là dấu chân rao giảng của các linh mục dòng Đa Minh (1550), và sự kiện nổi bật nhất là việc trở lại của công chúa Mai Hoa (Maria Flora) tại Thanh Hóa năm 1591. Hiện nay vẫn còn một nền nhà thờ và một giếng Datô do công chúa cho đào tại An Trường (Thanh Hoá).
Dựa vào gia phả nhà họ Đỗ, cụ Đỗ Hưng Viễn, làng Bồng Trung tỉnh Thanh Hoá, đi sứ và được Rửa Tội tại Macao thời vua Lê Anh Tôn (1573) nhưng con cháu cụ không ai theo đạo cả.
2* Tin Mừng bén rễ :
Đất nước chúng ta vào thế kỷ thứ 11 mới chỉ mở rộng đến đèo Ngang (1069), rồi giao tranh với nước Chiêm Thành và mở rộng bờ cõi đến Quảng Nam (1470) vào thế kỷ thứ 15. Nhờ cuộc Nam tiến của Nguyễn Hoàng (1558) và các chúa Nguyễn sau này mà đất nước (Đại Việt) chúng ta mới mang hình chữ S như hiện nay (Việt Nam).
Việc các cha dòng Tên đến Cửa Hàn, Quảng Nam vào năm 1615, thời Trịnh Nguyễn phân tranh, được coi là một khúc ngoặt mới trong lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Với nhiều kinh nghiệm đắt giá ở Nhật Bản, các thừa sai đã mau chóng chuyển qua đường lối chủ trương hội nhập văn hóa, quan tâm đặc biệt đến việc học ngôn ngữ, phong tục tập quán của người Việt, khiến Tin Mừng được đón nhận nhiều hơn và đã đi vào văn hóa Việt Nam trong một thời gian rất ngắn.
Nhiều thơ ca, vè, ngắm, dâng hoa, tuồng thương khó xuất hiện trong thời kỳ này vẫn còn âm hưởng lòng đạo đức truyền thống cho đến ngày nay. Chữ Quốc Ngữ của nước ta cũng được thành hình trong thời kỳ này nhờ công của các thừa sai khi các ngài dùng mẫu tự La-Tinh, Bồ Đào Nha, Italia… để phiên âm tiếng Việt, và dĩ nhiên có sự trợ giúp của các thầy giảng người Việt. Đặc biệt phải kể đến công lao của cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) khi ngài cho xuất bản cuốn tự điển Việt-Bồ-La, cuốn Văn phạm Annam và cuốn song ngữ ‘Phép giảng tám ngày’ tại Rôma năm 1651.
Trong thời kỳ này tại Trung Quốc cũng như ở Việt Nam nảy sinh ra các cuộc tranh luận về việc thờ cúng tổ tiên, lúc thuận lúc nghịch, cản trở không ít đến việc truyền giáo, kéo dài cả mấy trăm năm mà mãi đến năm 1965 Toà Thánh mới công nhận việc thờ cúng tổ tiên là một đạo lý làm người nên được phép và còn khuyến khích duy trì tập tục thảo kính ấy.
3* Hình thành Giáo Hội Việt Nam :
Năm 1659, Tòa Thánh thiết lập hai giáo phận trên đất Việt và đặt hai Giám Quản Tông Toà đầu tiên: Đức cha Lambert de la Motte ở Đàng Trong, và Đức cha Francois Pallu ở Đàng Ngoài (chỉ có Giám Mục Lambert de la Motte đến được VN).
Năm 1668, Đức cha Lambert de la Motte đã đặt tay truyền chức cho một số linh mục Việt Nam tiên khởi, và thành lập dòng Mến Thánh Giá mà ngày nay đang triển nở mạnh mẽ. Việc thành lập hàng giáo phẩm địa phương, vốn là mong ước của Tòa Thánh ngay từ năm 1659, nhưng trong thực tế phải đến ngày 24/11/1960, hàng giáo phẩm Việt Nam mới được thiết lập, đánh dấu sự trưởng thành của Giáo Hội Việt Nam sau 4 thế kỷ đón nhận Tin Mừng.
4* Vươn lên trong thử thách :
Chính khi mối bang giao với các nước Phương Tây được mở ra thì các vua chúa Nhà Nguyễn đã chọn chính sách bế quan tỏa cảng để bảo toàn lãnh thổ khỏi sự dòm ngó của nước ngoài. Điều đó đã bỏ mất cơ hội phát triển của đất nước, và dĩ nhiên, sự cấm cách bắt bớ đạo Công Giáo là điều khó tránh. Người ta đã lầm tưởng đạo Công Giáo là đạo Tây Phương, thực ra Đức Giêsu là người thuộc Châu Á (Israel), một mảnh đất cưu mang và thành hình nhiều tôn giáo lớn của nhân loại (Do Thái Giáo, Kitô giáo, Phật Giáo, Aán Độ Giáo, Khổng Giáo, Hồi Giáo, Thần Giáo [Nhật Bản]…)
Đã có vài trăm ngàn tín hữu hy sinh mạng sống để làm chứng cho đức tin mình đã lãnh nhận, trong số này đã có 117 vị được phong hiển thánh năm 1988 và 1 chân phước năm 2000. Chính từ giữa những khó khăn và thử thách ấy, niềm tin của các Kitô hữu càng được thanh luyện. Khi mà việc giữ đạo chẳng đem lại cho họ lợi lộc cụ thể nào thì số người theo đạo lại càng tăng lên, từ 320.000 Kitô hữu năm 1800 lên 426.000 năm 1855.
Năm 1975, Giáo Hội Việt Nam có 25 giáo phận, và năm 1980, Thư Chung của Hội Đồng Gíam Mục Việt Nam đã khẳng định đường hướng của các Kitô hữu Việt Nam: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”.
Riêng Giáo Phận Đà Lạt, được hình thành từ ngày thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam năm 1960 (24/11), và tách ra từ Giáo Phận Sài Gòn. Hiện nay (2003) Giáo Phận Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng) có khoảng hơn 270 ngàn tín hữu Công Giáo, 145 linh mục, 71 Giáo Xứ, 29 Giáo Sở, 61 Giáo Điểm, 1 Chủng Viện và 106 cộng đoàn tu sĩ.
Nhìn lại lịch sử hơn 300 năm, người tín hữu Việt Nam cần ý thức rằng đức tin mình đã lãnh nhận, đã được gieo trồng và vun xới bằng mồ hôi nước mắt và cả xương máu của tiền nhân. Chúng ta phải xác tín rằng Chúa luôn đồng hành với Giáo Hội trong từng bước đi, dù khi thành công hay thất bại, lúc chan hòa ánh sáng hay bóng tối buông kín. Điều đó hằng thúc giục chúng ta ngày hôm nay phải tiếp tục công việc của cha ông trong nỗ lực truyền giáo để Tin Mừng càng bám rễ và trổ sinh hoa quả tươi tốt ngay trong mảnh đất thân yêu này.
CẦU NGUYỆN :
“Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam, là những bậc tiền nhân đã hoàn thành sứ mạng, xin chuyển cầu cho chúng con là con cháu được noi gương các ngài, biết đem lòng bác ái mà dấn thân phục vụ, để một ngày kia trên thiên quốc, chúng con được hợp tiếng với các ngài, ca ngợi, tạ ơn Chúa muôn đời vinh hiển. Amen” (trích kinh các thánh tử đạo Việt Nam )
TÓM LƯỢC :
1* Đạo Công Giáo được loan truyền vào Việt Nam khi nào ?
– Đạo Công Giáo được loan báo tại đất nước chúng ta vào thế kỷ thứ 16, song chỉ phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ 17 khi có sự hội nhập văn hoá của các thừa sai Dòng Tên.
2* Giáo Hội Việt Nam được hình thành từ lúc nào ?
– Ngay từ thế kỷ thứ 17, đất nước chúng ta đã có hai Giáo Phận: Đàng Trong và Đàng Ngoài, song phải đợi đến năm 1960 mới chính thức có hàng giáo phẩm Việt Nam, và hiện nay có 25 Giáo Phận.
3* Cha ông chúng ta ngày xưa đã sống đức tin như thế nào?
– Các bậc tiền bối cha ông của chúng ta ngày xưa đã đón nhận và sống đức tin trong một hoàn cảnh thật khó khăn: một mặt phải chu toàn nghĩa vụ đời sống gia đình và tổ quốc, mặt khác vẫn yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa dù có phải hy sinh cả mạng sống mình để làm chứng cho đức tin Công Giáo.
QUYẾT TÂM :
Các bậc tiền bối Việt Nam ngày xưa đã hy sinh mạng sống để bảo vệ đức tin vừa mới lãnh nhận, tôi cũng ra sức học hỏi Giáo Lý để sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc.
BÀI 12 :PHỤNG VỤ và BÍ TÍCH
LỜI CHÚA :
“Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” ( Cv 2,42).
BÀI HỌC :
Hội Thánh là Dân Thiên Chúa nên có bổn phận thờ phượng và ca ngợi Thiên Chúa của mình trong các cử hành Phụng Vụ và Bí Tích.
I – HỘI THÁNH CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
1* Phụng Vụ là gì ?
Phụng Vụ là việc thờ phượng chính thức của Hội Thánh được thừa tác viên hợp pháp cử hành nhân danh toàn thể Hội Thánh.
Như vậy một cử hành có tính Phụng Vụ đòi phải có ba yếu tố :
1. Phải là lời kinh chính thức của Hội Thánh được ấn định trong sách Phụng Vụ, chứ không phải là lời nguyện tự phát.
2. Phải do một thừa tác viên hợp pháp cử hành, nghĩa là những người được Hội Thánh cắt đặt và ban quyền chủ sự, chứ không phải là bất cứ ai có thiện tâm là được.
3. Phải cử hành nhân danh toàn thể Hội Thánh vì Phụng Vụ không bao giờ có tính cá nhân cho dù thừa tác viên cử hành một mình.
Thế nên những việc sau đây được coi là việc Phụng Vụ vì hội đủ ba yếu tố trên : Thánh Lễ Tạ Ơn, 7 Bí Tích, và các Giờ Kinh Phụng Vụ. Ngoài ba việc kể trên mọi cử hành khác chỉ được coi là những việc đạo đức (Lần hạt, tĩnh tâm, hành hương, cầu nguyện …).
Mầu nhiệm Chúa Tử Nạn và Phục Sinh là mầu nhiệm cứu độ lớn nhất trong đạo, và là trung tâm của mọi cử hành phụng vụ. Vì thế, phụng vụ còn được gọi là việc Hội Thánh, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, cử hành mầu nhiệm Chúa chết đi và sống lại để tôn vinh Thiên Chúa và kêu cầu ơn cứu độ.
Cử hành ở đây được hiểu là hiện tại hoá mầu nhiệm cứu độ, chứ không phải tái diễn, nghĩa là nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Hội Thánh làm cho việc Chúa chết và sống lại không trôi vào dĩ vãng nhưng đi vào đời sống chúng ta hôm nay một cách mầu nhiệm. Tại sao vậy ? Đức Giêsu là con người nên bất cứ hành động nào của Ngài đã xảy ra đều đi vào quá khứ, nhưng Đức Giêsu còn là Thiên Chúa nên hành vi của Ngài mãi mãi là hiện tại, như lời sách Khải Huyền: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn năng” (Kh 1,8).
2* Mùa Phụng Vụ :
Năm Phụng Vụ bắt đầu với Chúa Nhật I mùa Vọng và kết thúc bằng lễ Chúa Kitô Vua. Đỉnh cao là Tuần Thánh và lễ Phục Sinh.
Năm Phụng Vụ chia làm 5 mùa:
a) Mùa Vọng:
Mùa Vọng là mùa hướng lòng về ngày Chúa Kitô sẽ lại đến trong vinh quang để xét xử thế giới và con người, nhưng gần hơn cả là chuẩn bị tâm hồn và đời sống để mừng mầu nhiệm Giáng Sinh.
Mùa Vọng kéo dài trong khoảng 4 tuần lễ, bắt đầu từ Chúa Nhật I mùa Vọng đến chiều ngày 24/12. Trong suốt mùa Vọng, lễ phục mang màu tím nói lên sự hoán cải trông đợi ơn cứu độ của Thiên Chúa.
b) Mùa Giáng Sinh:
Mùa Giáng Sinh mừng kính mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa làm người. Mùa này kéo dài khoảng hơn hai tuần, từ ngày 25/12 (lễ Giáng sinh) đến hết lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa (lễ phục màu trắng).
c) Mùa Chay:
1. Mùa Chay là mùa thống hối, trở về với Chúa để sửa soạn tâm hồn đón mừng lễ Phục Sinh (lễ phục màu tím). Mùa Chay, theo nguyên nghĩa, là mùa 40 ngày, có lẽ ban đầu khởi sự từ Chúa Nhật I mùa Chay đến hết ngày Thứ Năm Tuần Thánh (tuần I – V cộng thêm 5 ngày của Tuần Thánh [Chúa Nhật Lễ lá + Thứ Hai đến Thứ Năm TT] = 40). Thế nhưng truyền thống Hội Thánh muốn giữ chay 40 ngày, mà ngày Chúa Nhật là ngày kính Chúa Phục Sinh không được phép ăn chay, nên mùa Chay đã sớm bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro, trước Chúa Nhật I. Dù vậy cũng chưa đủ 40 ngày ăn chay (mới có 38 ngày chay) nên cộng thêm 2 ngày chay thánh nữa của Tam Nhật Vượt Qua là Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh.
2. Chuyển tiếp giữa mùa Chay và mùa Phục Sinh là TAM NHẬT VƯỢT QUA THÁNH. Tam Nhật Vượt Qua là ngày Thứ Sáu, Thứ Bảy và Chúa Nhật Phục Sinh, bắt đầu từ chiều Thứ Năm Tuần Thánh (vì ngày đại lễ đối với người Do Thái được bắt đầu từ chiều ngày hôm trước) cho đến hết ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
3. Sáng Thứ Năm Tuần Thánh, trong một giáo phận chỉ có một Thánh Lễ làm phép Dầu Thánh do Đức Giám Mục cử hành để sử dụng cho cả năm. Chiều Thứ Năm Tuần Thánh cử hành Thánh Lễ Tiệc Ly, tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể, sau lễ có Chầu Thánh Thể cho đến nửa đêm. Ngày thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh không cử hành Thánh Lễ, nhưng chiều Thứ Sáu có nghi thức Hôn Kính Thánh Giá để tưởng nhớ cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Chiều tối Thứ Bảy Tuần Thánh là đã bắt đầu ngày đại lễ nên có cử hành canh thức và Thánh Lễ Vọng Phục Sinh.
d) Mùa Phục Sinh:
Mùa Phục Sinh mừng kính mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô sống lại đem đến ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại (lễ phục trắng). Mùa Phục Sinh kéo dài 50 ngày, bắt đầu từ Thánh Lễ Vọng Phục Sinh cho đến hết lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, gồm 7 tuần.
e) Mùa Thường Niên:
Mùa thường niên gồm 34 tuần (lễ phục màu xanh lá cây), xen kẽ giữa mùa Giáng Sinh và mùa Chay (khoảng 8 tuần), giữa mùa Phục Sinh và mùa Vọng (các tuần còn lại).Trong mùa thường niên,Hội Thánh không cử hànhmột khía cạnh đặc biệt nào về mầu nhiệm Chúa Kitô như trong các mùa Giáng Sinh và Phục Sinh,nhưng tôn kính mầu nhiệm Chúa Kitô cách chung. Đây là thời gian Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về những lời rao giảng và cuộc đời của Chúa Kitô và hướng ta đến niềm hi vọng vinh quang muôn đời.
Trong các lễ kính các thánh thường sử dụng lễ phục màu Trắng, trừ màu Đỏ dành cho các thánh Tử Đạo, màu Tím cho các lễ Cầu Hồn hoặc An Táng, màu Vàng thay cho tất cả các màu (đối với Việt Nam), thường là đại lễ. Muốn biết hôm nay là ngày lễ gì, thuộc mùa gì, tuần mấy… thì phải mở Lịch Công Giáo của từng năm.
II – HỘI THÁNH CỬ HÀNH BÍ TÍCH
1* Bí Tích là gì ?
Bí tích là dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu do Chúa Giêsu thiết lập để thông chuyển ơn thiêng liêng cho chúng ta.
Như vậy một cử hành được xem là Bí tích phải hội đủ ba yếu tố :
Phải là một dấu chỉ , nghĩa là có thể nghe được, thấy được, cảm nhận được bằng giác quan của con người (hữu hình); và dấu chỉ ấy phải sinh hiệu quả do việc thừa tác viên hợp pháp cử hành đúng nghi thức của Hội Thánh (hữu hiệu). Bất cứ một bí tích nào cũng thường có hai dấu chỉ hữu hình quan trọng : dấu chỉ bằng sự việc (nước, đặt tay…) và dấu chỉ bằng lời (lời Rửa Tội, lời cầu xin Chúa Thánh Thần…).
Nhằm thông chuyển ơn lành của Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta tin rằng mình lãnh nhận được ơn thiêng liêng qua việc đón nhận các dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu đó. Ơn Chúa được hiểu là chính Chúa đến trợ giúp chúng ta, chứ không phải là một cái gì phụ thuộc của Chúa ban cho.
Và phải do Chúa Giê-su thiết lập và uỷ thác cho Hội Thánh (x.Mt 28,19; Lc 22,19; Ga 20,22).
Xét như vậy thì chỉ có 7 Bí tích : Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể, Hoà Giải, Xức Dầu bệnh nhân, Hôn Phối, và Truyền Chức thánh. Ngoài ra còn có nhiều nghi thức khác do Hội Thánh lập ra cũng để ban ơn thánh, song chỉ được gọi là phụ tích (như việc ban phép lành, tẩm liệm…).
2* Người ban và người lãnh nhận :
1. Người ban chính là người cử hành bí tích (thừa tác viên), phải được Hội Thánh thừa nhận (chẳng hạn người nhận chức thánh), và ban quyền (thừa tác viên hợp pháp), và phải làm đúng nghi thức của Hôïi Thánh với ý ngay lành thì bí tích mới sinh hiệu quả (hiệu năng do sự), mang lại ơn thánh cho những người muốn lãnh nhận mà không tuỳ thuộc vào tình trạng thánh thiện hay tội lỗi của người ban.
2. Người nhận bí tích phải có đức tin và ý muốn ngay lành. Bí tích chỉ được ban cho người còn sống, và giả thiết họ phải tin và có ý muốn tự do lãnh nhận. Mức độ lãnh nhận ơn Chúa còn tuỳ thuộc tình trạng tâm hồn của người lãnh nhận (hiệu năng do nhân).
Nếu hiểu bí tích là dấu chỉ mà qua đó con người gặp gỡ Thiên Chúa thì có vô vàn bí tích. Chẳng hạn: Hội Thánh là bí tích của Đức Kitô, Chúa Kitô là bí tích của Thiên Chúa, và bất cứ một sự việc, sự vật nào cũng có thể là bí tích mà qua đó chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa.
CẦU NGUYỆN :
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn đức tin để con có thể lãnh nhận các bí tích của Chúa trong Hội Thánh Công Giáo.
Đọc kinh : Cúi xin Chúa sáng soi, trang 11
TÓM LƯỢC :
1* Phụng Vụ là gì ?
– Phụng Vụ là việc Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô để tôn vinh Thiên Chúa và kêu cầu ơn cứu độ.
2* Những việc đạo nào được gọi là Phụng Vụ ?
-Chỉ có ba việc: Thánh lễ tạ ơn, 7 bí tích và các giờ kinh phụng vụ, được xem là việc phụng vụ của Hội Thánh. Ngoài ba việc đó, chỉ được xem là những việc đạo đức.
3* Bí tích là gì ?
– Bí tích là những dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu do Chúa Giêsu thiết lập để thông chuyển các ơn thiêng liêng của Chúa.
4* Phụ tích là gì ?
– Phụ tích cũng là những dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu để ban ơn lành của Chúa, nhưng do Hội Thánh ấn định.
5* Có mấy bí tích?
– Có 7 bí tích là Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể, Hoà Giải, Xức Dầu bệnh nhân, Truyền Chức Thánh và Hôn Phối.
6* Làm sao để bí tích trở thành hữu hiệu ?
– Để bí tích hữu hiệu cần phải có đầy đủ các dấu chỉ chính yếu, và phải được thừa tác viên hợp pháp cử hành đúng nghi thức của Hội Thánh.
7* Muốn lãnh nhận bí tích thì phải làm gì ?
– Muốn lãnh nhận bí tích thì phải có đức tin và ý muốn ngay lành, kèm theo sự hiểu biết Giáo Lý.
QUYẾT TÂM :
Ơn Chúa không bao giờ cưỡng bức nên tôi phải cộng tác với Chúa để ơn Chúa sinh hiệu quả trong đời sống.