TĨNH TÂM THƯỢNG HỘI ĐỒNG VỚI CHA TIMOTHY RADCLIFFE, OP
BÀI IV: CUỘC TRÒ CHUYỆN TRÊN ĐƯỜNG EMMAU
WHĐ (08.10.2023) – Vào sáng thứ Hai, ngày mồng 02.10 Cha Timothy Radcliffe, OP đã suy tư về ý nghĩa của ‘Cuộc trò chuyện trên đường Emmau’ với các tham dự viên Đại hội Thượng Hội đồng.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta được mời gọi bước đi trên con đường hiệp hành trong tình bằng hữu. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng đi tới đâu. Tình bằng hữu với Thiên Chúa và với nhau, khởi nguồn từ niềm vui được ở bên nhau nhưng cần phải có lời nói. Tại Caesare Philipp, cuộc trò chuyện đã bị gián đoạn. Chúa Giêsu đã gọi Phêrô là “Satan”, kẻ thù. Trên núi cao, Phêrô vẫn không biết phải nói gì nhưng các môn đệ bắt đầu lắng nghe Chúa Giêsu và cuộc trò chuyện lại bắt đầu trên hành trình lên Giêrusalem.
Trên đường đi, các môn đệ cãi vã, hiểu lầm Chúa Giêsu, và cuối cùng bỏ rơi Người. Sự im lặng trở lại. Nhưng Chúa Phục Sinh hiện ra và ban cho các ông những lời chữa lành để họ nói chuyện với nhau. Chúng ta cũng cần những lời chữa lành vượt lên trên những ranh giới chia rẽ: ranh giới ý thức hệ giữa cánh tả và cánh hữu; những ranh giới văn hóa phân chia Châu lục này với Châu lục kia, và những căng thẳng đôi khi chia rẽ người nam và người nữ. Những lời nói mang tính chia sẻ là huyết mạch của Giáo hội. Giữa một thế giới nơi bạo lực gia tăng do bởi sự bất lực trong việc lắng nghe, chúng ta cần tìm ra lời nói mang tính chia sẻ này. Cuộc trò chuyện dẫn đến sự hoán cải.
Cuộc trò chuyện nên bắt đầu như thế nào? Trong sách Sáng thế, sau trình thuật về sự sa ngã, có một sự im lặng khủng khiếp. Sự im lặng trong vườn Eden đã trở thành sự im lặng của sự xấu hổ. Adam và Eva lẩn trốn. Thiên Chúa đã vượt qua vực thẳm của sự im lặng đó như thế nào? Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi hai ông bà che thân để che giấu sự bối rối của mình. Giờ đây họ đã sẵn sàng cho cuộc trò chuyện đầu tiên trong Kinh Thánh. Thiên Chúa phá vỡ sự im lặng bằng một câu hỏi đơn giản: “Ngươi đang ở đâu?” Đây không phải là một câu hỏi yêu cầu cung cấp thông tin nhưng là một lời gọi hai ông bà bước ra ánh sáng và minh nhiên đứng trước mặt Thiên Chúa.
Có lẽ đây là câu hỏi đầu tiên mà chúng ta nên dùng để phá vỡ sự im lặng ngăn cách chúng ta. Không phải là những câu hỏi chẳng hạn như: “Tại sao bạn lại có những quan điểm khác thường về Phụng vụ?‘ Hoặc “Tại sao bạn giống như dị giáo. Tại sao bạn lại là một con quái vật gia trưởng?’ hoặc “Tại sao bạn phớt lờ tôi?’ Mà là hãy hỏi: “Bạn đang ở đâu?’ “Bạn đang lo lắng về điều gì?’ Chính là tôi đây. Thiên Chúa mời Adam và Eva ra khỏi nơi ẩn nấp và hiện diện trước mặt Ngài. Nếu chúng ta cũng bước ra ánh sáng và để mọi người nhìn nhận chúng ta như chúng ta là, thì chúng ta sẽ tìm được lời để nói với nhau. Trong tiến trình chuẩn bị cho Thượng Hội đồng này, thì chính các giáo sĩ thường là những người ngần ngại nhất trong việc bước ra ánh sáng và chia sẻ những lo lắng và hoài nghi của mình. Có lẽ chúng ta sợ bị nhìn thấy trần trụi. Làm sao chúng ta có thể khuyến khích nhau đừng sợ hãi trạng thái trần trụi này?
Sau khi Chúa Phục Sinh, những câu hỏi đã phá vỡ sự im lặng của ngôi mộ trống. Trong Tin Mừng Gioan, “Này bà, sao bà khóc?’. Trong Luca, “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết?‘. Khi các môn đệ trên đường đi Emmau, lòng họ đầy tức giận và thất vọng. Những người phụ nữ khẳng định đã nhìn thấy Chúa, nhưng họ chỉ là phụ nữ mà thôi. Ngay cả ngày nay, đôi khi phụ nữ dường như không được tính đến! Các môn đệ đang rời bỏ cộng đoàn Giáo Hội, giống như rất nhiều người ngày nay. Chúa Giêsu không cản đường họ cũng không lên án họ. Người hỏi “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?‘. Những hy vọng và thất vọng đang khuấy động trong lòng các anh là gì? Các môn đệ đang nói chuyện với nhau một cách buồn bã. Tiếng Hy Lạp có nghĩa đen là, “Những lời mà các anh đang ném vào nhau là gì vậy?’. Vì thế Chúa Giêsu mời gọi họ chia sẻ với Người sự giận dữ của họ. Họ đã hy vọng rằng Chúa Giêsu sẽ là người giải thoát Israel, nhưng họ đã lầm. Chúa Giêsu đã thất bại. Do đó, Người bước đi cùng họ và mở lòng đón nhận sự tức giận và sợ hãi của họ.
Thế giới của chúng ta đầy dẫy sự phẫn nộ. Chúng ta nói về chính trị của sự giận dữ. Một cuốn sách mới đây có tên là American Rage (Sự phẫn nộ của người Mỹ). Sự phẫn nộ này cũng lây nhiễm vào Giáo hội của chúng ta. Một sự phẫn nộ chính đáng trước việc lạm dụng tình dục trẻ em. Giận dữ trước vị trí của phụ nữ trong Giáo hội. Phẫn nộ với những người quá bảo thủ hoặc cấp tiến quá đáng. Chúng ta có giống như Chúa Giêsu để dám hỏi nhau: “Anh em đang trao đổi về điều gì vậy? Tại sao anh em giận dữ?’ Chúng ta có dám nghe câu trả lời không? Đôi khi tôi cảm thấy chán ngấy việc phải nghe những lời giận dữ này. Tôi không thể chịu nổi khi phải nghe thêm những điều tương tự như thế nữa. Nhưng tôi phải lắng nghe, như Chúa Giêsu đã làm, với hai môn đệ trên đường đi Emmau.
Nhiều người hy vọng rằng Thượng Hội đồng này sẽ lắng nghe tiếng nói của họ. Họ cảm thấy bị phớt lờ và không có tiếng nói. Họ đúng. Nhưng chúng ta sẽ chỉ có thể lên tiếng nếu chúng ta lắng nghe trước đã. Thiên Chúa gọi đích danh con người. Abraham; Môsê, Samuel. Họ đáp lại bằng từ tuyệt đẹp trong tiếng Do Thái Hinneni, Này tôi đây. Nền tảng sự hiện hữu của chúng ta là Thiên Chúa gọi tên từng người chúng ta, và chúng ta lắng nghe lời Ngài. Không phải kiểu của triết gia Descartes ‘Tôi suy tư nên tôi hiện hữu” mà là “tôi lắng nghe nên tôi hiện hữu”. Chúng ta ở đây để lắng nghe Chúa và lắng nghe nhau. Người ta thường nói rằng chúng ta có hai tai nhưng chỉ có một miệng! Chỉ sau khi lắng nghe mới có lời nói.
Chúng ta lắng nghe không chỉ những gì mọi người đang nói mà cả những gì họ đang cố gắng nói. Chúng ta lắng nghe cả những lời chưa được nói ra, những lời mà họ tìm kiếm. Người Sicilia có một câu nói rằng: “La miglior parola è quella che non si dice – Lời hay nhất là lời chưa được nói ra”[1]. Chúng ta lắng nghe xem những lời ấy đúng ra sao, những lời ấy đúng tới đâu, ngay cả khi những lời ấy là sai. Chúng ta lắng nghe với niềm hy vọng chứ không khinh thường. Dòng Đa Minh chúng tôi có một quy định trong Tổng Hội. Những gì anh em nói không bao giờ là vô nghĩa. Lời ấy có thể được thông tin sai, phi logic, hoặc thực sự sai. Nhưng đâu đó trong những lời sai lầm ấy là một sự thật mà tôi cần được nghe. Chúng ta là những người hành khất sĩ đi tìm sự thật. Các anh em tiên khởi đã nói về Thánh Đa Minh rằng “Ngài hiểu mọi sự nhờ trí thông minh khiêm nhường của mình”[2].
Có lẽ các Dòng tu có điều gì đó để dạy Giáo hội về nghệ thuật đối thoại. Thánh Biển Đức dạy chúng ta tìm kiếm sự nhất trí; Thánh Đa Minh thích tranh luận, Thánh Catarina Siena thích trò chuyện, Thánh Ignatius Loyola dạy về nghệ thuật phân định, và Thánh Philip Neri đề cao vai trò của tiếng cười.
Nếu chúng ta thực sự lắng nghe, những câu trả lời mà chúng ta chuẩn bị sẵn sẽ không còn nữa. Chúng ta sẽ im lặng và không nói nên lời, giống như Zechariah trước khi ông cất lên tiếng hát. Nếu tôi không biết phải đáp lại thế nào trước nỗi đau hoặc sự bối rối của anh chị em mình, tôi phải hướng về Chúa và cầu xin Chúa giúp tôi phải nói gì. Sau đó cuộc trò chuyện có thể bắt đầu.
Cuộc trò chuyện cần một bước nhảy đó là hình dung về trải nghiệm của người khác. Nhìn bằng mắt, nghe bằng tai của họ. Chúng ta cần đi vào nội tâm của họ. Lời nói của họ xuất phát từ trải nghiệm nào? Họ mang theo nỗi đau hay niềm hy vọng nào? Họ đang đi trên hành trình nào?
Đã có một cuộc tranh luận sôi nổi trong Tổng Hội của Dòng Đa Minh về việc bản chất của việc giảng thuyết, vốn luôn là một đề tài nóng bỏng đối với tu sĩ Đa Minh! Tài liệu được đề xuất cho Tổng Hội hiểu việc rao giảng như một cuộc đối thoại: chúng ta tuyên xưng đức tin của mình bằng cách bước vào cuộc đối thoại. Nhưng một số nghị viên phản đối quyết liệt, cho rằng điều này gần giống với thuyết tương đối. Họ nói: “Chúng ta phải can đảm rao giảng về sự thật”. Dần dần, người ta thấy rõ rằng những anh em tranh luận về vấn đề này đang nói về những trải nghiệm rất khác nhau.
Tài liệu này do một tu huynh sống ở Pakistan viết ra, nơi mà Kitô giáo nhất thiết phải đối thoại thường xuyên với Hồi giáo. Ở Châu Á, chẳng thể rao giảng mà không có đối thoại. Những anh em phản ứng mạnh mẽ với tài liệu này phần lớn đều đến từ Liên Xô cũ. Đối với họ, ý tưởng đối thoại với những người đã từng cầm tù họ là hoàn toàn vô nghĩa. Để vượt thắng sự bất đồng, lập luận hợp lý là cần thiết nhưng chưa đủ. Bạn phải hình dung tại sao người khác lại giữ quan điểm của họ. Những trải nghiệm nào đã dẫn họ đến quan điểm này? Họ phải chịu những vết thương nào? Đâu là niềm vui của họ?
Điều này đòi hỏi người ta phải lắng nghe bằng tất cả trí tưởng tượng của mình. Tình yêu luôn là chiến thắng của trí tưởng tượng, còn hận thù là sự thất bại của trí tưởng tượng. Hận thù là trừu tượng. Tình yêu phải cụ thể. Trong cuốn tiểu thuyết The Power and the Glory (Quyền lực và Vinh quang) của nhà văn Graham Greene, vị anh hùng, một linh mục nghèo hèn, nói rằng: “Khi bạn nhìn thấy những nếp nhăn ở khóe mắt, hình dáng của cái miệng, mái tóc dài ra như thế nào, bạn không thể ghét được. Sự căm ghét chỉ là sự thất bại của trí tưởng tượng mà thôi”.
Chúng ta cần vượt qua các ranh giới không chỉ về cánh tả và cánh hữu, hoặc ranh giới văn hóa, mà cả ranh giới thế hệ. Tôi may mắn được sống với những anh em Đa Minh trẻ có hành trình đức tin khác với tôi. Nhiều tu sĩ và linh mục thuộc thế hệ của tôi lớn lên trong những gia đình Công giáo thuần túy. Đức tin thấm sâu vào đời sống hằng ngày của chúng tôi. Cuộc phiêu lưu của Công đồng Vatican II là tiếp cận với thế giới thế tục. Các linh mục người Pháp đến làm việc trong các nhà máy. Chúng tôi để lại tu phục và hoà mình vào thế giới. Một nữ tu nổi giận khi thấy tôi mặc áo dòng đã nói: “Tại sao cha vẫn mặc bộ đồ cổ hủ đó?”.
Ngày nay, nhiều người trẻ lớn lên trong một thế giới tục hoá, theo thuyết bất khả tri hoặc thậm chí vô thần, đặc biệt là ở phương Tây nhưng ngày càng gia tăng ở khắp mọi nơi. Cuộc phiêu lưu của họ là khám phá Phúc âm, Giáo hội, và truyền thống. Họ vui vẻ mặc tu phục. Cuộc hành trình của chúng tôi trái ngược nhau nhưng không mâu thuẫn nhau. Giống như Chúa Giêsu, tôi phải đồng hành với họ và tìm hiểu điều gì khiến tâm hồn họ phấn khởi. Bạn đang nói về chuyện gì thế? Bạn xem phim gì đấy? Bạn yêu thích loại nhạc nào? Rồi chúng ta sẽ trò chuyện với nhau.
Tôi phải hình dung xem họ nhìn tôi như thế nào! Tôi là ai trong ánh nhìn của họ? Có lần tôi đạp xe quanh Sài Gòn với một nhóm sinh viên Đa Minh Việt Nam. Điều này xảy ra từ rất lâu trước khi khách du lịch trở nên phổ biến. Chúng tôi chạy vòng qua góc phố thì thấy có một nhóm du khách người Tây. Họ trông to lớn, mập mạp và có màu da lạ hoắc. Thật là kỳ quặc. Sau đó tôi nhận ra rằng trông tôi cũng giống như vậy!
Khi các môn đệ trên đường đi Emmau, họ lắng nghe một người lạ, người mà gọi họ là những kẻ chẳng hiểu gì cả và người đó còn có cái nhìn mâu thuẫn với họ. Người này cũng đang tức giận! Nhưng họ bắt đầu thích thú với lời của người lạ mặt này. Lòng họ đã bừng cháy lên. Trong Thượng Hội đồng, liệu chúng ta có thể học được niềm vui ngây ngất của sự bất đồng dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc chăng? Hugo Rahner, em trai của Karl Rahner (đọc tác phẩm của Hugo thì dễ hiểu hơn nhiều!) đã viết một cuốn sách On homo ludens – nhân loại vui tươi[3]. Chúng ta hãy học cách nói chuyện một cách dí dỏm với nhau! Như Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari bên bờ giếng trong Tin Mừng Gioan chương 4.
Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, chúng ta nghe rằng vào thời viên mãn, “Tại các quảng trường trong thành phố, đông đảo thiếu nhi nam nữ tới vui đùa” (Za 8, 5). Phúc âm mời gọi tất cả chúng ta hãy trở nên trẻ nhỏ: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18, 3). Chúng ta chuẩn bị cho Nước Trời bằng cách trở nên vui tươi, trẻ thơ nhưng không trẻ con. Đôi khi chúng ta ở trong Giáo Hội bị đau khổ bởi sự nghiêm túc một cách buồn tẻ. Chẳng trách người ta chán!
Vào đêm giao thừa của thiên niên kỷ mới, khi đang đợi ở Cote d’Ivoire để bắt chuyến bay tới Angola, tôi ngồi trong bóng tối với nhóm sinh viên Đa Minh, cùng uống bia và thoải mái trò chuyện về những gì thân thương nhất đối với chúng tôi. Chúng tôi thích thú vì được trở nên khác biệt, có những trí tưởng tượng khác nhau. Niềm vui trong sự khác biệt! Tôi sợ mình sẽ lỡ chuyến bay nhưng đã trễ ba ngày rồi! Sự khác biệt có tính phong nhiêu, có khả năng sinh sản. Mỗi chúng ta là kết quả của sự khác biệt tuyệt vời giữa nam và nữ. Nếu chúng ta trốn tránh sự khác biệt, chúng ta sẽ trở nên cằn cỗi và vô sinh trong gia đình và trong Giáo hội của mình. Một lần nữa, chúng tôi xin cảm ơn tất cả các bậc cha mẹ tại Thượng Hội đồng này! Các gia đình có thể dạy Giáo hội rất nhiều về làm sao để đối phó với sự khác biệt. Cha mẹ học làm sao để tiếp cận những đứa trẻ khi chúng đưa ra những lựa chọn khó hiểu nhưng vẫn biết rằng chúng vẫn có một mái ấm gia đình.
Nếu chúng ta có thể khám phá ra niềm vui khi hình dung tại sao anh chị em chúng ta lại có những quan điểm mà chúng ta thấy kỳ quặc, thì một mùa xuân mới sẽ bắt đầu trong Giáo hội. Chúa Thánh Thần sẽ ban cho chúng ta ơn nói được các ngôn ngữ khác.
Hãy lưu ý rằng Chúa Giêsu không cố gắng kiểm soát cuộc trò chuyện. Người hỏi các môn đệ đang nói về chuyện gì; Người đi đến nơi họ đi chứ không phải nơi Người muốn đi; Người đón nhận lòng hiếu khách của họ. Một cuộc trò chuyện thực sự không thể bị kiểm soát. Chúng ta cần buông mình theo sự dẫn dắt của cuộc trò chuyện. Chúng ta không thể đoán trước được cuộc trò chuyện sẽ dẫn chúng ta tới đâu, Emmau hay Giêrusalem. Thượng Hội đồng này sẽ dẫn Giáo hội đến đâu? Nếu chúng ta biết trước thì có nó cũng chẳng ích gì! Chúng ta hãy để mình bị ngạc nhiên!
Do đó, cuộc trò chuyện thực sự có nhiều rủi ro. Nếu chúng ta cởi mở với người khác trong cuộc trò chuyện thoải mái thì chúng ta sẽ được thay đổi. Mỗi tình bạn sâu sắc đều mang lại cho cuộc sống của tôi một chiều kích và căn tính chưa từng tồn tại trước đây. Tôi trở thành một người mà trước đây tôi chưa từng hiện hữu. Tôi lớn lên trong một gia đình Công giáo giữ đạo tuyệt vời. Khi trở thành một tu sĩ Đa Minh, tôi kết bạn với những người có hoàn cảnh, nền chính trị hoàn toàn khác, điều mà gia đình tôi cảm thấy lo lắng! Vậy thì tôi là ai khi về nhà ở với gia đình? Làm thế nào tôi có thể dung hòa được con người của tôi như ‘tôi là’ với gia đình và như một người mà tôi đang trở thành với các tu sĩ Đa Minh?
Mỗi năm tôi làm quen với những tu sĩ Đa Minh mới gia nhập với những xác tín và những cách nhìn thế giới khác nhau. Nếu tôi mở lòng với họ trong tình bằng hữu, tôi sẽ trở thành ai? Ngay cả khi tôi đã cao tuổi, căn tính của tôi vẫn phải được bỏ ngỏ. Trong cuốn tiểu thuyết Do Not Say We Have Nothing (Đừng nói chúng ta không có gì) của Madeleine Thiên viết về những người Hoa nhập cư ở Mỹ, một nhân vật đã nói: “Đừng bao giờ cố gắng trở thành một điều gì đó duy nhất, một người không thay đổi. Nếu có rất nhiều người yêu quý bạn, liệu bạn có thể là điều duy nhất đó một cách trung thực không?”[4]. Nếu chúng ta cởi mở với nhiều tình bằng hữu, căn tính của chúng ta sẽ không bị xác định một cách chặt chẽ, đơn điệu. Nếu chúng ta cởi mở với nhau trong Thượng Hội đồng này, tất cả chúng ta sẽ được biến đổi. Sẽ phải nếm cảm một chút cái chết để được phục sinh.
Một cha giáo Tập viện Dòng Đa Minh người Philippines có dán một mẩu thông báo trước cửa phòng: “Xin hãy tha thứ cho tôi. Tôi đang trong quá trình hoàn thiện“. Sự gắn kết còn ở phía trước, trong Vương quốc. Khi đó, tính sói và cừu trong mỗi chúng ta sẽ hòa thuận với nhau. Nếu bây giờ chúng ta có những căn tính cố định, khép kín được khắc trên đá, chúng ta sẽ không bao giờ biết được cuộc phiêu lưu của những tình bằng hữu mới sẽ mở ra những chiều kích mới về con người như chúng ta là. Chúng ta sẽ không thể mở ra với tình bằng hữu bao la của Chúa.
Khi họ đến Emmau, chuyến đi khởi hành từ Giêrusalem dừng lại. Chúa Giêsu có vẻ như muốn đi xa hơn, nhưng điều trớ trêu là các môn đệ mời vị Chúa của ngày Sabát ở lại với họ. “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn” (Lc 24, 29). Chúa Giêsu chấp nhận lòng hiếu khách của họ giống như ba người khách lạ trong sách Sáng thế 18 đã chấp nhận lòng hiếu khách của Abraham. Thiên Chúa là khách của chúng ta. Chúng ta cũng phải khiêm nhường để trở thành những vị khách. Bản tóm tắt của Đức nói rằng chúng ta phải rời bỏ ‘vị thế thoải mái của những người chào đón để cho phép mình được chào đón vào sự hiện hữu của những người đồng hành với chúng ta trên hành trình nhân loại’.
Marie-Dominique Chenu OP, nghị phụ thâm niên của Công đồng Vatican II, hầu như đều ra ngoài vào các buổi tối, ngay cả khi ngài đã 80 tuổi. Ngài đi ra để lắng nghe những người lãnh đạo công đoàn, giới học giả, nghệ sĩ, gia đình và đón nhận lòng hiếu khách của họ. Vào buổi chiều, chúng tôi gặp nhau uống bia và ngài hỏi: ‘Hôm nay bạn học được điều gì? Bạn đã ngồi ở bàn với ai? Bạn đã nhận được những món quà nào?’ Giáo hội tại mỗi châu lục đều có những món quà dành cho Giáo hội hoàn vũ. Xin đan cử một ví dụ, các anh em ở Châu Mỹ Latinh đã dạy tôi phải lắng nghe tiếng nói của người nghèo, đặc biệt là người anh em yêu quý của chúng tôi, Gustavo Gutiérrez. Chúng ta có nên nghe họ trong các cuộc tranh luận của chúng ta trong tháng này không? Chúng ta sẽ học được gì từ anh chị em chúng ta ở Châu Á và Châu Phi?
“Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người nhưng Người lại biến mất” (Lc 24, 29). Mắt của họ đã được mở ra. Trên đây, chúng ta có nghe cụm từ đó là khi Adam và Eva hái trái từ Cây Sự Sống, mắt họ mở ra và họ biết mình trần truồng. Đây là lý do tại sao một số nhà chú giải cổ xưa cho rằng hai môn đệ ấy là Cleopas và vợ ông, một cặp vợ chồng, một Adam và Eva mới. Giờ đây họ ăn bánh sự sống.
Một suy tư nhỏ cuối cùng: Khi Chúa Giêsu biến khỏi tầm mắt, họ nói: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24, 32). Dường như chỉ sau đó họ mới nhận ra niềm vui mà họ có được khi cùng bước đi với Chúa. Thánh John Henry Newman nói rằng chỉ khi nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta mới nhận ra Thiên Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta như thế nào. Tôi cầu xin rằng đây cũng sẽ là trải nghiệm của chúng ta.
Trong Thượng Hội đồng này, chúng ta sẽ giống như những người môn đệ. Đôi khi chúng ta không nhận thức được ân sủng của Chúa đang hành động trong chúng ta và thậm chí có thể nghĩ rằng tất cả những điều đó chỉ là lãng phí thời gian. Nhưng tôi cầu xin Chúa để sau này khi nhìn lại, chúng ta sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa luôn ở bên chúng ta và lòng chúng ta bừng cháy.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: vaticannews.va/en (02. 10. 2023)