Chào anh em,
Tôi rất vui được gặp anh em và chân thành cám ơn anh em vì sự đón tiếp nồng hậu. Cám ơn Đức Tổng Giám Mục Utembi Tapa đã đại diện anh em chào mừng tôi. Tôi biết ơn anh em vì đã can đảm loan báo niềm an ủi của Chúa, bước đi giữa mọi người, cùng chia sẻ những nỗ lực và hy vọng với dân chúng.
Tôi rất vui khi được trải qua những ngày này tại đất nước anh em, một đất nước với khu rừng rộng lớn tượng trưng cho “trái tim xanh” của châu Phi, lá phổi của cả thế giới. Tầm quan trọng của di sản sinh thái này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta được kêu gọi bảo vệ vẻ đẹp của thụ tạo và bảo vệ vẻ đẹp này khỏi những vết thương do sự ích kỷ tham lam gây ra. Nhưng khoảng xanh bao la của khu rừng này cũng là một hình ảnh nói lên đời sống Kitô hữu chúng ta: là một Giáo hội, chúng ta cần hít thở bầu khí trong lành của Tin Mừng, xua đuổi bầu khí ô nhiễm của thế tục, để bảo vệ trái tim trẻ trung của đức tin. Tôi hình dung về Giáo hội châu Phi và Giáo hội Congo: một Giáo hội trẻ trung, năng động, vui vẻ, được sinh động bởi lòng nhiệt thành truyền giáo, loan báo Thiên Chúa yêu thương chúng ta và Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Giáo hội của anh em là một Giáo hội hiện diện trong lịch sử thực tế của dân tộc này, đi đầu trong hoạt động bác ái; một cộng đoàn có khả năng thu hút và lan truyền bằng sự nhiệt tình, và do đó giống như những khu rừng, có rất nhiều “oxy”: cám ơn anh em, bởi vì anh em là lá phổi mang lại hơi thở cho Giáo hội hoàn vũ!
Rất tiếc, tôi biết cộng đoàn Kitô giáo của vùng đất này còn có một khuôn mặt khác. Thực tế, khuôn mặt trẻ trung, rạng rỡ và xinh đẹp của anh em cũng lộ vẻ đau đớn và mệt mỏi, đôi khi được đánh dấu bằng sự sợ hãi và chán nản. Đó là khuôn mặt của một Giáo hội đau khổ vì dân, một trái tim trong đó cuộc sống của người dân với những niềm vui và thử thách đập một cách lo lắng. Đó là một Giáo hội, dấu hiệu hữu hình của Chúa Kitô, Đấng ngay cả ngày nay bị từ chối, lên án và khinh miệt trong nhiều cuộc đóng đinh trên thế giới. Đó là một Giáo hội, giống Chúa Giêsu, cũng muốn lau khô nước mắt dân Người, dấn thân gánh lấy những vết thương vật chất và tinh thần của con người và làm cho nước hằng sống và chữa lành từ sườn Chúa Kitô chảy tràn trên họ.
Cùng với anh em, tôi thấy Chúa Giêsu đau khổ trong lịch sử của dân tộc bị đóng đinh và bị áp bức này, bị tàn phá bởi bạo lực không chừa một ai, bị đánh dấu bởi nỗi đau vô tội, buộc phải sống với dòng nước nhơ nhuốc của tham nhũng và bất công làm ô nhiễm xã hội. Nhưng đồng thời tôi cũng thấy một dân tộc không đánh mất niềm hy vọng, nhiệt thành đón nhận đức tin và hướng về các Mục tử, biết trở về với Chúa và phó thác trong tay Người, để hòa bình mà họ khao khát mặc dù đã bị bóp nghẹt bởi sự bóc lột, ích kỷ, độc ác của các cuộc xung đột và thao túng sự thật, cuối cùng có thể đến như một hồng ân từ trên cao.
Chúng ta tự hỏi: làm thế nào để thi hành thừa tác vụ trong hoàn cảnh này? Nghĩ về anh em, những mục tử của dân thánh Chúa, tôi nhớ đến câu chuyện của Giêrêmia, một ngôn sứ được kêu gọi sống sứ vụ trong một thời điểm đầy kịch tính của lịch sử Israel, giữa những bất công, ghê tởm và đau khổ. Ngôn sứ đã dành cả cuộc đời để loan báo Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi dân Người và thực hiện các dự án hòa bình ngay cả trong những tình huống dường như bị mất tất cả và không thể phục hồi. Nhưng Giêrêmia trước hết đã cảm nghiệm được lời loan báo đức tin đầy an ủi này, ông là người đầu tiên cảm nghiệm được sự gần gũi của Thiên Chúa, và chỉ bằng cách này, ông mới có thể mang đến cho người khác lời ngôn sứ can đảm về niềm hy vọng. Thừa tác vụ giám mục của anh em cũng sống giữa hai chiều kích: sự gần gũi của Thiên Chúa và lời ngôn sứ cho dân chúng.
Trước hết tôi muốn nói với anh em rằng: hãy để sự gần gũi của Thiên Chúa chạm đến và an ủi. Lời đầu tiên Chúa nói với Giêrêmia là: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết người” (Gr 1,5). Đó là lời tuyên bố tình yêu mà Thiên Chúa khắc ghi trong tâm hồn mỗi người chúng ta, không ai có thể xóa nhòa và cũng trở thành nguồn an ủi giữa giông tố cuộc đời. Đối với chúng ta, những người đã lãnh nhận lời kêu gọi trở thành mục tử Dân Chúa, điều quan trọng là phải đặt nền tảng vào sự gần gũi này của Chúa, dành nhiều giờ cầu nguyện trước Chúa. Chỉ bằng cách này, dân được ủy thác cho chúng ta mới đến gần Vị Mục Tử Nhân Lành hơn và chỉ bằng cách này, chúng ta mới thực sự trở thành những mục tử, bởi vì không có Người, chúng ta chẳng làm được gì (Ga 15, 5). Ước gì chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình tự đủ, cũng đừng nhìn thấy trong chức vụ Giám mục cơ hội thăng tiến địa vị xã hội để thi hành quyền bính. Và trên hết: không để tinh thần thế tục bước vào, khiến chúng ta giải thích thừa tác vụ theo tiêu chuẩn tư lợi, làm cho chúng ta lạnh lùng và tách biệt trong việc thi hành những gì được trao phó, khiến chúng ta sử dụng vai trò của mình để phục vụ chính mình thay vì phục vụ người khác, và bỏ qua một tương quan quan trọng, đó là cầu nguyện khiêm tốn hàng ngày.
Anh em Giám mục thân mến, chúng ta hãy vun trồng sự gần gũi với Chúa để trở nên những chứng nhân và phát ngôn viên đáng tin của tình yêu Người dành cho mọi người. Chính nhờ chúng ta mà Người muốn xức dầu an ủi và hy vọng cho dân chúng! Anh em là tiếng nói mà Thiên Chúa muốn nói với người Congo: “Anh em là một dân thánh hiến cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 7, 6). Loan báo Tin Mừng, làm sinh động đời sống mục vụ, hướng dẫn dân chúng không thể trở thành những ý tưởng xa rời thực tế cuộc sống hàng ngày, nhưng phải chạm đến những vết thương và thông truyền sự gần gũi Thiên Chúa, để mọi người khám phá ra phẩm giá là con Thiên Chúa, và học cách ngẩng cao đầu bước đi, không bao giờ cúi đầu trước sự sỉ nhục và áp bức. Qua anh em, dân tộc này có ân sủng được nghe những lời nói mà với họ tương tự như những lời mà Chúa đã nói với Giêrêmia: “Ngươi là dân được chúc phúc, trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã nghĩ đến ngươi, đã biết ngươi, đã yêu ngươi”. Nếu chúng ta vun trồng sự gần gũi với Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy được thúc đẩy đến mọi người và chúng ta sẽ luôn cảm thấy thương xót những người được giao phó cho chúng ta. Được Chúa thêm sức, đến lượt chúng ta trở thành khí cụ an ủi và hòa giải cho người khác, để chữa lành vết thương của những người đau khổ, xoa dịu nỗi đau của những người than khóc, nâng đỡ người nghèo, giải thoát người dân khỏi nhiều hình thức nô lệ và áp bức. Sự gần gũi với Thiên Chúa có nghĩa là trở thành ngôn sứ cho dân chúng, có khả năng gieo Lời cứu độ vào lịch sử đầy thương tích của chính quê hương mình.
Để đi vào điểm thứ hai này, lời ngôn sứ cho dân chúng, chúng ta hãy nhìn lại kinh nghiệm của Giêrêmia. Sau khi đón nhận Lời yêu thương và an ủi của Thiên Chúa, ông được mời gọi làm “ngôn sứ cho muôn dân” (Gr 1, 5) được sai đến để mang ánh sáng vào bóng tối, để làm chứng trong bối cảnh bạo lực và tham nhũng. Và Giêrêmia, người đã nghiền ngẫm Lời Chúa, Lời đã trở thành niềm vui và sự hân hoan trong tâm hồn ông (Gr 15,10), thú nhận rằng chính Lời này đã gieo vào lòng ông một sự bồn chồn khôn nguôi, và khiến ông hướng tới người khác để họ cũng được sự hiện diện của Chúa chạm đến. Ngôn sứ viết: “Lời Người cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến hao mòn, nhưng làm sao nén được” (Gr 20, 9). Chúng ta không thể giữ Lời Chúa cho riêng mình, chúng ta không thể kiềm chế sức mạnh của Lời Chúa: đó là ngọn lửa đốt cháy sự thờ ơ của chúng ta và khơi dậy trong chúng ta ước muốn soi sáng những ai ở trong bóng tối. Lời Chúa là ngọn lửa đốt cháy bên trong và thúc đẩy chúng ta ra ngoài! Đây là căn tính giám mục: được đốt cháy bởi Lời Chúa, hướng tới Dân Chúa, với lòng nhiệt thành tông đồ!
Nhưng chúng ta có thể tự hỏi lời loan báo ngôn sứ này cốt ở điều gì? Chúa phán với ngôn sứ Giêrêmia: “Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, đệ lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng” (Gr 1,9-10). Những động từ mạnh: đầu tiên nhổ bỏ và phá huỷ, để cuối cùng xây và trồng. Đó là việc cộng tác trong một lịch sử mới mà Thiên Chúa muốn xây dựng giữa một thế giới lầm lạc và bất công. Anh em cũng được kêu gọi để tiếp tục làm cho tiếng nói ngôn sứ của anh em được lắng nghe, để lương tâm có thể cảm thấy được chất vấn và mỗi người có thể trở thành nhân vật chính và có trách nhiệm cho một tương lai khác. Do đó, cần phải nhổ tận gốc cây độc hận thù và ích kỷ, hiềm thù và bạo lực; phá bỏ các bàn thờ tiền bạc và tham nhũng; xây dựng một sự chung sống dựa trên công lý, sự thật và hòa bình; và cuối cùng là gieo hạt giống tái sinh, để Congo ngày mai thực sự là điều Chúa hằng mơ ước: một vùng đất được chúc phúc và hạnh phúc, không bao giờ bị bạo lực, áp bức và đẫm máu nữa.
Nhưng chúng ta hãy cẩn thận: đây không phải là một hành động chính trị. Lời ngôn sứ Kitô giáo được thể hiện trong nhiều hành động chính trị và xã hội, nhưng nhiệm vụ của các Giám mục và Mục tử nói chung không phải là điều này. Nhiệm vụ của Giám mục là công bố Lời Chúa để đánh thức lương tâm, tố cáo sự dữ, làm phấn khởi những ai đau khổ và tuyệt vọng. Đó là một loan báo được đưa ra không chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng sự gần gũi và chứng tá: sự gần gũi, trên hết, với các linh mục, lắng nghe những người đang hoạt động mục vụ, khuyến khích tinh thần hiệp hành làm việc cùng nhau. Và chứng tá, bởi vì các vị mục tử trước hết phải đáng tin cậy, nhất là trong việc vun trồng sự hiệp thông, trong đời sống luân lý và trong việc quản trị các phúc lợi. Theo nghĩa này, điều cần thiết là phải biết cách xây dựng sự hòa hợp, không đứng trên bệ, không khắt khe, nhưng nêu gương tốt trong việc hỗ trợ và tha thứ cho nhau, cùng nhau làm việc như những mẫu gương của tình huynh đệ, hòa bình và sự đơn sơ Tin Mừng. Mong rằng đừng bao giờ xảy ra chuyện, trong khi dân chúng đang đói khổ, người ta có thể nói về anh em rằng: “không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn” ( Mt 22, 5). Không, công việc kinh doanh, làm ơn, chúng ta hãy để nó ra khỏi vườn nho của Chúa! Chúng ta là mục tử và là những người phục vụ dân chúng, không phải doanh nhân! Quản trị của giám mục phải là mục tử: trước, giữa, sau đoàn chiên. Đi trước để báo hiệu dẫn đường; ở giữa để ngửi mùi của chiên để không bị mất. Đi sau chiên để giúp đỡ những chiên đi chậm. Vị mục tử phải di chuyển theo ba hướng này.
Anh em Giám mục thân mến, tôi đã chia sẻ với anh em điều tôi cảm thấy trong lòng. Hãy nuôi dưỡng sự gần gũi với Chúa để trở thành những dấu chỉ ngôn sứ về lòng trắc ẩn của Người đối với dân. Đừng xao lãng đối thoại với Chúa và đừng để ngọn lửa ngôn sứ bị dập tắt bởi những tính toán hay mối quan hệ mơ hồ với quyền lực, cũng như bởi lối sống tự mãn và thói quen. Trước dân tộc đang đau khổ và chịu bất công, Tin Mừng mời gọi chúng ta lên tiếng. Một người trong anh em đã làm điều đó, vị tôi tớ của Chúa, Đức cha Christophe Munzihirwa, một mục tử can đảm và có tiếng nói ngôn sứ, đã bảo vệ dân bằng cách hy sinh mạng sống. Một ngày trước khi mất, vị tôi tớ Chúa đã gửi cho mọi người một sứ điệp: “Chúng ta còn có thể làm gì trong những ngày này? Chúng ta hãy đứng vững trong đức tin. Chúng ta tin Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta và ở đâu đó một tia hy vọng nhỏ bé sẽ nảy sinh cho chúng ta. Thiên Chúa sẽ không xa rời chúng ta nếu chúng ta cam kết tôn trọng sự sống của người lân cận, bất kể họ thuộc sắc tộc nào”. Ngày hôm sau, Đức cha bị giết ở quảng trường thành phố, nhưng những hạt giống ngài gieo trên vùng đất này, cùng với nhiều người khác, sẽ đơm hoa kết trái. Là một việc làm tốt khi tưởng nhớ với lòng biết ơn, các vị Mục tử vĩ đại đã ghi dấu ấn trong lịch sử đất nước và Giáo hội anh em, những người đã loan báo Tin Mừng và đi trước anh em trong đức tin. Đó là gốc rễ vững chắc củng cố anh em nhiệt thành truyền giáo. Tôi cũng nghĩ đến những điều tốt đẹp mà Đức Hồng Y Laurent Monsengwo Pasinya đã làm cho tôi.
Anh em thân mến, anh em đừng sợ trở thành những ngôn sứ của niềm hy vọng cho dân chúng, những tiếng nói đồng thanh an ủi của Chúa, những chứng nhân và sứ giả vui tươi của Tin Mừng, những tông đồ của công lý, những người Samari của tình liên đới. Anh em hãy là những chứng nhân của lòng thương xót và hòa giải giữa bạo lực được giải thoát không chỉ do khai thác tài nguyên và xung đột sắc tộc, bộ tộc, nhưng còn và trên hết là do thế lực đen tối của ma quỷ, kẻ thù của Thiên Chúa và con người. Tuy nhiên, đừng bao giờ nản lòng: Đấng Chịu Đóng Đinh đã sống lại, Chúa Giêsu đã chiến thắng, Người đã chiến thắng thế gian (Ga 16, 33) và Người muốn chiếu sáng nơi anh em, nơi công việc quý giá của anh em, trong việc gieo bình an hiệu quả của anh em! Tôi muốn cám ơn anh em vì sự phục vụ của anh em, vì lòng nhiệt thành mục vụ của anh em, vì chứng tá của anh em.
Và giờ đây, khi kết thúc cuộc viếng thăm này, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với anh em và tất cả những ai đã chuẩn bị cho chuyến tông du. Anh em đã phải làm việc hai lần vì chuyến thăm đã bị hủy bỏ lần đầu tiên, nhưng tôi biết anh em đầy thương xót đối với Giáo Hoàng! Tôi thật sự rất biết ơn. Tháng 6 tới anh em sẽ cử hành Đại hội Thánh Thể Quốc gia tại Lubumbashi: Chúa Giêsu thực sự hiện diện và hoạt động trong Bí tích Thánh Thể; ở đó Người hòa giải và chữa lành, an ủi và hợp nhất, soi sáng và biến đổi; ở đó Người truyền cảm hứng, nâng đỡ và làm cho sứ vụ của anh em đem lại hiệu quả. Xin sự hiện diện của Chúa Giêsu, Vị Mục Tử nhân lành và khiêm nhường trong lòng, Đấng chiến thắng sự dữ và sự chết, biến đổi đất nước vĩ đại này và luôn là niềm vui và niềm hy vọng của anh em! Với tất cả tâm hồn, tôi ban phép lành cho anh em. Tôi chỉ muốn thêm một điều: tôi đã nói anh em “có lòng thương xót”. Thương xót Luôn luôn tha thứ. Khi một tín hữu đến xưng tội, người này đến để xin sự tha thứ, xin sự âu yếm của người cha. Và chúng ta, chỉ tay buộc tội! “Bao nhiêu lần rồi? Và đã làm điều đó như thế nào?” Không được xử sự như vậy. Hãy luôn luôn tha thứ trong Bí Tích Hòa Giải. Và như vậy anh em sẽ gieo sự tha thứ cho toàn xã hội. Tôi ban phép lành cho anh em. Và xin hãy tiếp tục cầu nguyện cho tôi, vì chức vụ này hơi khó…! Nhưng tôi tin tưởng anh em. Xin cám ơn.