Sứ mạng loan báo Tin mừng: Chìa khóa để hiểu đời sống Linh mục và Tu sĩ thánh hiến

“SỨ MẠNG LOAN BÁO TIN MỪNG: CHÌA KHÓA ĐỂ HIỂU ĐỜI SỐNG LINH MỤC VÀ TU SĨ THÁNH HIẾN”

Đức cha Anphong Nguyễn Hữu Long,
Giám mục Giáo phận Vinh,
Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng
Bài thuyết trình tại Khóa bồi dưỡng Thần học và Truyền giáo
ngày 4.7.2019 
tại Bãi Dâu, Vũng Tàu

I. Đặt vấn đề

Tiêu đề bài viết cho thấy sứ mạng loan báo Tin Mừng gắn liền một cách thiết thân với các linh mục và tu sĩ, là những người sống đời thánh hiến, như chiếc chìa khóa để mở cánh cửa.

Ai ai cũng nghĩ và cho rằng các linh mục và tu sĩ là người được giao cho sứ mạng Loan báo Tin Mừng trước mọi người khác. Thánh Mác-cô kể lại việc Chúa chọn các tông đồ như sau: “Rồi Ngài lên núi và kêu lại những kẻ Ngài muốn. Và họ đến với Ngài. Ngài đã đặt một nhóm Mười hai, để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi rao giảng…” (Mc 3,13-14). Chúa kêu gọi và tuyển chọn ai, là nhằm mục đích sai đi thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng.

“Tông huấn Vita Consecrata (VC) số 25: Có thể nói rằng ý nghĩa truyền giáo (missio) nằm ngay trong lòng mọi hình thức đời tận hiến. Những người tận hiến sẽ trở thành những nhà truyền giáo trước tiên bằng việc thường xuyên ý thức sâu xa rằng họ đã được Thiên Chúa kêu gọi và chọn lựa, nên phải quy hướng và dâng hiến cho Người toàn thể cuộc đời của họ và tất cả những gì họ có, bằng cách tự giải thoát khỏi những trở ngại làm trì trệ việc đáp trả trọn vẹn trong tình yêu. Như thế họ sẽ trở thành một dấu chỉ trung thực về Đức Kitô trong thế giới. Lối sống của họ phải phản ánh lý tưởng họ tuyên xưng, khi xuất hiện như là những dấu chỉ sống động của Thiên Chúa và là những nhà rao giảng Tin Mừng đầy sức thuyết phục, cho dù họ thường im hơi lặng tiếng”[1].

Tông huấn Evangelii Gaudium đưa ra danh từ kép ‘disciple-missionnaire’ (môn đệ-truyền giáo): “chúng ta không còn nói mình là những “người môn đệ” và “người truyền giáo”, nhưng đúng hơn, chúng ta luôn luôn là những “người môn đệ – truyền giáo” (EG số 120).

Tác giả José Cristo Paredes[2] trong bài viết “Mission: The key to understand consecrated life today – Sứ mạng: chìa khóa để hiểu đời sống thánh hiến hôm nay” nhận xét rằng: trong các cuộc hội thảo thần học hay tổng tu nghị của dòng, người ta bàn bạc nhiều vấn đề hầu cập nhật sự hiện diện và hoạt động của dòng, trong khi vấn đề cốt lõi là sứ mạng thì lại ít được đào sâu, bàn bạc. Ngài cho rằng “những vấn đề này càng trở nên tệ hại và nghiêm trọng hơn khi tinh thần truyền giáo suy yếu và chúng ta đã mất ý thức truyền giáo trong cuộc sống chúng ta”. Nếu không có một ý thức mạnh về sứ mạng, thì đời sống thánh hiến trong Hội Thánh không có ý nghĩa gì, không có lý do hiện hữu”. “Một thần học mà không bắt đầu từ sứ mạng (và nhằm phục vụ sứ mạng) thì là một thần học không có phương hướng, không mục tiêu, không đam mê, không cảm xúc, nó không giải đáp được những câu hỏi lớn của thế giới chúng ta hôm nay”.[3]

 

Khóa bồi dưỡng thần học của chúng ta hôm nay không ngoài mục tiêu giúp đào sâu ý thức về sứ mạng Loan báo Tin Mừng, để thôi thúc sự thực hành.

Chúng ta cần hiểu rõ ý nghĩa thần học của sứ mạng, sau đó dựa vào hoàn cảnh thực tế của mỗi nơi mỗi thời, mà áp dụng vào đời sống và sứ vụ của mỗi người, mỗi hội dòng.

II. Thần học về sứ mạng

1. Sứ mạng, nguyên ngữ latinh là Missio, từ động từ Mittere và phân từ là Missum, có nghĩa là ‘sai đi’ hay ‘được sai đi’. Một người được sai đi, được ủy thác thực hiện một nhiệm vụ, một sứ vụ. “Sự vụ lệnh” là tờ giấy chỉ định một người làm một công vụ.

2. Sứ mạng hay sứ vụ trước hết được thấy nơi chính Thiên Chúa. Missio Dei, ‘sứ mạng của Thiên Chúa’ là một phạm trù thần học rất quan trọng, Thiên Chúa coi đây là sứ mạng của chính Ngài. Chúa Cha sai Chúa Giêsu. Ngài là sứ giả của Chúa Cha, được sai đi với sứ mạng nói cho con người biết về Thiên Chúa, qua công cuộc nhập thể và cứu chuộc, Chúa Giêsu thi hành sứ mạng của một Đấng Cứu Thế.

Chúa Cha cũng sai Thánh Thần để cộng tác vào sứ vụ tạo dựng (Missio creationis), nhập thể (Missio incarnationis) và cứu chuộc (Missio redemptoris) của Chúa Giêsu. Chúa Thánh Thần cũng linh hứng cho các ngôn sứ, thúc đẩy họ thi hành kế hoạch của Thiên Chúa.

3. Thiên Chúa không giữ sứ mạng này cho riêng Ngài, mà cho con người cộng tác vào sứ mạng với Ngài. Qua việc được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, là nam và nữ kết thành vợ chồng, và canh tác vườn địa đàng, Thánh Kinh muốn nói rằng con người được Thiên Chúa trao cho sứ mạng rất vinh dự là được cộng tác với Ngài để trở nên “đồng tạo dựng”, làm cho cuộc sống riêng của họ hạnh phúc, làm cho thế giới nên hoàn hảo, và mối tương quan xã hội giữa con người với nhau tốt đẹp, vì tất cả đều là con Chúa.

– Con người tham dự vào sứ mạng sáng tạo (sứ mạng trần thế), khi xây dựng gia đình, kết thành vợ chồng, sinh sản con cái; khi làm cho vũ trụ thêm xinh tươi, ích lợi, khiến cho cuộc sống cá nhân và xã hội tốt đẹp.

– Con người tham dự vào sứ mạng cứu chuộc (sứ mạng Nước Trời), khi xa tránh tội lỗi, để ơn cứu độ của Chúa lan tới mình và mọi người, khôi phục vẻ đẹp và sự hoàn thiện lúc ban đầu của vũ trụ và con người mà tội lỗi đã đánh mất, để Nước Chúa được hiển trị ngay trong cõi đời này.

4. Chúa Giêsu thi hành sứ mạng của Ngài. Đối với sứ mạng sáng tạo, không chỉ bởi Chúa Cha mà Chúa Con và Chúa Thánh Thần cùng tham dự vào công cuộc này. Nhưng đặc biệt hơn, Chúa Con thi hành sứ mạng Cứu chuộc, tái tạo công trình sáng tạo tốt đẹp thuở ban đầu. Ngài thi hành sứ mạng này bằng nhiều cách thức: rao giảng Tin Mừng, làm theo ý Chúa Cha, hiến dâng mạng sống trên thập giá. Ngài cũng chia sẻ sứ mạng này cho các môn đệ khi kêu gọi, huấn luyện và sai họ đi rao giảng Tin Mừng: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa thì được cứu độ, ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16,15-16).

“VC 72: Theo hình ảnh Đức Giêsu, Con yêu dấu “mà Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian” (Ga 10,36), những người Thiên Chúa gọi theo Người, cũng được thánh hiến và sai đến thế gian để bắt chước gương Người và tiếp tục sứ mạng của Người. Điều này được áp dụng cho mọi môn đệ nói chung. Tuy nhiên, nó được áp dụng cách riêng cho những ai được mời gọi theo Chúa Kitô “sát hơn” trong hình thức đặc thù là đời thánh hiến và lấy Người làm “tất cả” của đời mình. Như vậy, lời mời gọi, đối với họ, bao hàm cam kết dâng hiến toàn thân cho sứ mạng; hơn nữa, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, nguồn gốc mọi ơn gọi và mọi đoàn sủng, chính đời thánh hiến trở thành một sứ mạng, như cả cuộc đời Đức Giêsu đã là một sứ mạng”[4].

5. Sau khi Chúa Giêsu hoàn thành sứ mạng của Ngài, Chúa Thánh Thần đã được Chúa Cha và Chúa Con sai đến thực hiện sứ mạng của Ngài (Missio Spiritus Sancti) giữa lòng Hội Thánh. Đây là thời của Ngài. Cho đến nay, Ngài vẫn luôn hiện diện và hoạt động nơi Hội Thánh qua việc dạy dỗ, hướng dẫn, thánh hóa mọi công cuộc của Hội Thánh, qua đặc sủng nơi những người được ơn này. Ngài là tác nhân chính của sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Ngài không ngừng làm cho mọi thành phần dân Chúa nhận ra những dấu chỉ trong không gian và thời gian (les signes des temps – signa temporum), được ví như những “tiếng kêu của Thần Khí”, để Hội Thánh cộng tác với Ngài thực hiện.

6. Sau cùng là sứ mạng khải huyền (Missio apocalyptica) mà Giáo Hội nhắm tới, dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Sứ mạng này được thực hiện giữa thế giới, có khi trong hoàn cảnh mà xem ra ma quỷ thắng thế và Giáo Hội đang phải “rên la đau đớn, như phụ nữ sắp sinh con”. Giữa hoàn cảnh tối tăm bi đát đó, Giáo Hội ý thức phải khẩn cấp thực hiện sứ mạng loan báo Triều đại Thiên Chúa đang đến gần, thời gian sắp mãn, cầu nguyện liên lỉ, không tin tưởng vào quyền lực hạn hẹp của con người, nhưng dựa vào quyền năng chiến thắng của Thiên Chúa.

Kết luận: Sứ mạng cần được hiểu toàn diện và trọn vẹn: đó là công cuộc của Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo Hội được Thiên Chúa cho tham dự vào sứ mạng đó: với Chúa Cha trong công cuộc tạo dựng; với Chúa Con trong công cuộc nhập thể, cứu chuộc; với Chúa Thánh Thần trong công cuộc cánh chung. Sứ mạng được trao cho mọi người, không ai giữ độc quyền.

III. Sứ mạng, chìa khóa để hiểu đời sống thánh hiến hôm nay

Là những người sống đời thánh hiến – linh mục hay tu sĩ -, chúng ta ý thức cuộc sống và sứ vụ của mình gắn liền với Chúa, tham gia vào sứ mạng của Thiên Chúa (sứ mạng sáng tạo, cứu chuộc, cánh chung, sứ mạng của Chúa Thánh Thần). Chúng ta phải để sứ mạng chi phối, điều khiển mọi hoạt động của mình, trên căn bản các điểm nhấn sau đây:

a- Mọi công việc chúng ta làm đều đến từ Thiên Chúa và trở về với Thiên Chúa. Chúng ta ý thức mình tiếp nối sứ mạng của Ngài. Chúa Giêsu cho biết Ngài là sứ giả của Chúa Cha, được sai đến thực hiện công việc của Người. Cũng thế, người thánh hiến xác tín rằng họ được Chúa sai đi để cộng tác, thực hiện công việc của Chúa, sống cho Chúa, lương thực của họ là làm theo ý Chúa, là rao giảng Tin Mừng Cứu độ cho mọi người. Họ được gọi trở nên người thánh hiến là để cộng tác vào kế hoạch của Thiên Chúa.

b- Sứ mạng này có tính cấp bách. Kế hoạch của Thiên Chúa không thể bị kéo dài vô thời hạn. Đức Maria đi thăm bà chị họ một cách vội vã. Các sứ giả của Đức Giêsu được Người sai đi với lời dặn dò phải đi thẳng tới nơi thi hành sứ mạng, không được lãng phí thời gian trên đường. Người thừa sai cần nhiệt huyết và mau mắn thi hành sứ mạng chứ không lừng khừng, chần chừ. Ngoài ra, họ không quên chiêm niệm về Thiên Chúa và mầu nhiệm của Người, để qua cầu nguyện, họ hiểu thấu ý nghĩa của sứ mạng. Nhờ cầu nguyện và chiêm niệm, ý nghĩa và kế hoạch của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại được tỏ lộ ra.

c- Mỗi hội dòng có đặc sủng để tham gia vào sứ mạng của Hội Thánh theo cách thế riêng. Tuy nhiên, các hội dòng không nên quá chú trọng đến sứ mạng riêng mà quên mất họ cần Chúa Thánh Thần hướng dẫn để trở nên khí cụ đích thực của Ngài cho sứ mạng chung. Cần phân định xem trong hoàn cảnh hiện tại của Giáo hội và xã hội, Chúa Thánh Thần muốn hội dòng thực hành sứ mạng của mình như thế nào cho phù hợp và hiệu quả (update, aggiornamento).

Đoạn văn sau đây đáng chúng ta suy nghĩ:

Sứ mạng đoàn sủng của một tu hội không cần phải đáp ứng cái nhìn riêng của một bề trên nào đó, nhưng cần đáp ứng sự phân định nghiêm túc của cộng đoàn về việc Thần Khí muốn gì. Sứ mạng được phân định khi chúng ta suy tư sâu về thế giới mình đang sống, về thực tại và bằng cách lắng nghe những tiếng kêu của Thần Khí. Có thể xảy ra trường hợp một Tu Hội đang thực thi một sứ mạng không tương ứng với tiếng kêu của Thánh Thần. Có thể là tu hội ấy đang đáp lại một số nhu cầu của xã hội và của thời đại mình đang sống, nhưng không thực sự thi hành sứ mạng đoàn sủng mà Thần Khí Chúa đang dẫn đến. Cần nhiều sự từ bỏ mình và khả năng nhận ra những quan tâm của Thiên Chúa. Chỉ khi biết lắng nghe Tin Mừng và để cho Lời Tin Mừng soi sáng thực tại, chúng ta mới có thể đạt được sự phân định đúng”.[5]

Nhận định trên đây làm chúng ta băn khoăn khi thấy các dòng tu tại Việt Nam đều dốc lực vào những công việc để… kiếm sống, mà không quan tâm đến sứ mạng chính yếu là rao giảng Tin Mừng.

d- Các hội dòng cần phân định việc thực hiện sứ mạng đoàn sủng của dòng có còn đúng đắn để tiếp tục, hay lệch lạc để chấn chỉnh. Nếu không thực hiện sứ mạng đặc sủng ban đầu (được gọi là ‘gia sản thiêng liêng’) thì hội dòng không còn hữu ích, và sự hiện diện của dòng mất ý nghĩa.

Sứ mạng đoàn sủng của các hội dòng cũng phải hướng đến viễn ảnh cánh chung. Hội dòng và các tu sĩ trong cuộc sống tại thế phải làm chứng cho mọi người về sự quang lâm của Chúa và Nước của Ngài. “Đời sống thánh hiến trong sứ mạng là thi hành chức năng làm dấu chỉ và dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Đời sống tu trì không phải là một đoàn sủng của Thánh Thần để giải quyết các vấn đề của các Giáo Hội hay các xã hội tại địa phương; đúng hơn, ơn gọi đời tu là sự tỏ lộ hình ảnh lý tưởng của Triều Đại Thiên Chúa và làm chứng rằng Triều Đại Thiên Chúa không phải là kết quả của các cố gắng nhân loại của chúng ta, nhưng là một hồng ân”.[6]

e- Các hội dòng nên liên kết với nhau thực hiện sứ mạng, không độc lập, tách riêng trong sứ mạng. Có sự hiệp nhất giữa các phần tử của dòng trong sứ mạng riêng, nhưng đồng thời hiệp thông trong cùng sứ mạng chung giữa các hội dòng sống đời thánh hiến.

IV. Sứ mạng ở trọng tâm của đời sống thánh hiến

Khi sứ mạng được đặt ở tâm điểm của đời sống thánh hiến, nó sẽ ảnh hưởng sâu xa đến linh đạo, đời sống cộng đoàn và cơ cấu.

– Linh đạo của một hội dòng phải phát xuất từ sứ mạng và quy về sứ mạng. Linh đạo dẫn các tu sĩ tham gia sứ mạng của Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha sai họ vào thế gian để nói cho mọi người biết tình yêu của Thiên Chúa; muốn thế, họ cần hiệp thông với Chúa Giêsu đến mức là hiện thân của Ngài. Nếu như “ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy” (Ga 14,9), thì cũng vậy, ai thấy tu sĩ thì như thấy Chúa Giêsu; sau cùng Chúa Thánh Thần đồng hành trong sứ mạng của hội dòng.

Linh đạo của dòng phải khiến cho các tu sĩ say mê Chúa, đầy Chúa, tim họ bùng cháy Lời Ngài, tình thương Ngài, đến mức họ được thúc đẩy ra đi chia sẻ cho người khác. Sứ mạng sẽ thúc đẩy tu sĩ-thừa sai có những sáng kiến và hoạt động cho sứ mạng. “Từ tinh thần đến thân xác, từ lý trí tới trí thông minh và trí tưởng tượng, mọi sự nơi người truyền giáo trở thành một bí tích và một dụng cụ của hành động của Lời và Thần Khí của Thiên Chúa[7]. Ta thấy điều này nơi Maria Magđala, bị thu hút bởi lòng yêu mến, chạy ra mộ từ sáng sớm, rồi khi được Chúa hiện ra, bà đã vội chạy đi báo tin cho các môn đệ. Hay như hai môn đệ trên đường Em-mau. Phanxicô Xaviê, Phanxicô Átsidi, Charles de Foucauld, biết bao tu sĩ-thừa sai khác cũng giống như thế.

– Hiệp thông: Cộng đoàn tu sĩ là cộng đoàn hiệp thông với Chúa và với nhau, cùng chia sẻ một sứ mạng chung là truyền giáo, vươn tới sự hiệp thông rộng lớn hơn với những người ở ngoài để đưa họ vào trong Giáo Hội, hiệp thông với Giáo Hội. Điều này nói lên công giáo tính, phổ quát tính của Giáo Hội.

Có một mô hình cộng đoàn phát sinh từ sứ mạng, và cộng đoàn là truyền giáo do bẩm sinh. Một cộng đoàn truyền giáo là cộng đoàn có mục tiêu mở rộng sự hiệp thông, và là sự hiệp thông bắt nguồn từ Cha và Con. Rao giảng có mục tiêu chính là tạo dựng sự hiệp thông. Ở đâu không có niềm say mê hiệp thông truyền giáo với Thiên Chúa, làm sao một cộng đoàn có thể thực sự là nơi Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị ? Vì lý do này, cộng đoàn được nuôi dưỡng bởi trải nghiệm Lời Sự Sống. Khi trải nghiệm này diễn ra, có một nhu cầu nóng bỏng phải truyền đạt và thông tri nó cho người khác. Khi có trải nghiệm này, sự hiệp thông được mở rộng. Không cộng đoàn nào là một mục đích tự thân; đúng hơn, cộng đoàn phải luôn luôn ở trong một tiến trình mở rộng thường xuyên[8].

– Các dấu chỉ thời đại và tiếng kêu của Thần Khí: Sứ mạng cần được làm mới và sống động nhờ những dấu chỉ của thời đại, qua đó người ta nhận ra ý muốn của Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần thôi thúc, và làm theo. Nói theo ngôn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô là “ra đi đến vùng ngoại vi”.

Một người và một cộng đoàn cảm thấy mình quan tâm và say mê với sứ mạng thì trở thành những người lính gác khải huyền. Họ luôn luôn tỉnh táo và nhạy bén trước ý muốn của Thiên Chúa được tỏ lộ qua các sự kiện lịch sử. Họ có một sức mạnh lớn hơn sức mạnh của các cơ chế, các tập tục và các truyền thống. Người truyền giáo đích thực luôn luôn sẵn sàng thay đổi, đến phục vụ ở một nơi mới, nơi mà missio Dei trở thành cấp bách và cần có những người cộng tác. Để có thể làm điều này, chúng ta không được đứng ngoài các vấn đề của xã hội, nhưng phải dấn mình vào các vấn đề ấy. Cần mẫn và chăm chú nghiên cứu và phân định bất cứ điều gì xảy ra xung quanh chúng ta là sức mạnh có khả năng kéo chúng ta ra khỏi những thói quen hằng ngày, giúp chúng ta sẵn sàng phục vụ sứ mạng đang ngày càng trở nên thúc bách hơn (x. Evangelii Nuntiandi, số 14).

Trong đời thánh hiến, chúng ta dễ bị cám dỗ tìm sự an toàn, tiện nghi, thoải mái…, không dễ dàng và mạnh dạn đứng dậy, mở cửa, đi ra, đến mọi chân trời, để thực hiện sứ mạng căn để của mình. Các nữ tu trẻ, khi được thăm dò, hầu hết đều nói lên ước muốn được sai đi truyền giáo, trong khi các bề trên thì ngại ngần sai đi, vì bị áp lực nhiều mặt, nhất là về cơ chế, sự lo lắng vật chất, sự an toàn cho con cái mình, sợ họ bị khổ cực… Tác giả José Cristo Paredes đặt tất cả chúng ta trước một thách đố và đưa ra một đề nghị thẳng thắn như sau:

Có những lúc mà để vâng lời Thần Khí, chúng ta cần bất tuân bất cứ điều gì đi ngược lại ơn gọi truyền giáo chân chính của chúng ta. Không còn được phép dung dưỡng trong đời sống tu trì tình trạng những người chỉ lo làm việc, làm việc mà không có tinh thần truyền giáo, làm việc mà không ý thức mình đang thi hành sứ mạng của Thiên Chúa. Lắm khi điều chúng ta nhận thức được chỉ là thái độ cam chịu và vâng phục đối với công việc được giao cho chúng ta, nhưng không thấy có khả năng sáng tạo nơi những người cảm thấy mình được Thiên Chúa sai đi làm điều gì đó cho sự mặc khải và thể hiện Triều Đại Thiên Chúa[9].

– Quyền bính và sự điều hành: Để cộng đoàn thánh hiến ra đi thực hiện sứ mạng, thì điều cần thiết là chính bề trên, người nắm giữ quyền bính phải có niềm say mê truyền giáo trước. Họ là người phải thổi luồng sinh khí truyền giáo cho các thành viên của hội dòng. Tác giả José Cristo Paredes cũng đưa ra nhận định sau đây:

Nét đặc trưng quan trọng nhất của một bề trên tu sĩ là được cuốn hút bởi niềm say mê truyền giáo của Thiên Chúa cho thế giới. Chúng ta không cần những nhà quản lý của các tổ chức hay các doanh nghiệp, nhưng cần những ngôn sứ đích thực cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa đối với dân của Người. Một việc phục vụ quyền bính của người tu sĩ mà thấm nhuần tinh thần truyền giáo này thì sẽ có khả năng làm bùng cháy niềm phấn khởi cho mọi thành viên của cộng đoàn. Thái độ lãnh đạo-phục vụ này sẽ là thái độ cảm thương và thông cảm đối với những người yếu, nhưng đồng thời cũng ý thức rằng phương thuốc hiệu quả nhất là chạm tới trái tim của các tu sĩ bằng một tinh thần truyền giáo nóng bỏng. Việc phục vụ của quyền bính trong cộng đoàn tu sĩ phải kiến tạo nên sự ý thức và hiểu biết rằng chúng ta là những đối tác của Đức Giêsu trong giấc mơ của Người cho tương lai của thế giới. Như Evangelii Nuntiandi nói, các nguồn lực và các tổ chức tu sĩ mà trong đó chúng ta không thấy có sự cảm hứng truyền giáo mạnh thì không có lý do để tồn tại (x. các số 14-15). Một việc phục vụ của quyền bính theo viễn tượng truyền giáo này thì không sợ hãi, nó dám mạo hiểm để nghiên cứu và tìm kiếm những đường lối truyền giáo mới mẻ. Khi sự phục vụ của quyền bính không được sinh động hoá bởi việc truyền giáo, sự phục vụ của nó trở thành phục vụ sự chết”.[10] Hai câu chuyện minh họa:

1- Cha Dourisboure kể lại trong “Les sauvages Bahnar – Souvenirs d’un missionnaire” (Paris 1873) việc đức cha Cuénot Thể sai cha Combes (Bê) và thầy Sáu Do đi lên Kontum mở đạo năm 1850. Đoàn phải thoái lui vì gặp nhiều trở ngại.

“Thế là đành phải quyết định quay về, và các nhà thám hiểm của chúng ta cảm thấy xấu hổ, khiêm tốn kể lại cho Đức Cha Cuénot lý do tại sao và làm thế nào mà công việc thất bại, nói đúng hơn là bị đình trệ như thế. Ngài thường lặp lại câu này: “Trong tiếng Pháp không có từ ‘không thể được’”. Còn Đức Cha Cuénot thì cho rằng từ ấy lại càng không xứng hợp với người tông đồ. Ngài lạnh nhạt tiếp đón những “chú thỏ đế” và nói với họ: “Vì thời tiết xấu còn kéo dài, tôi cho các vị mười lăm ngày để nghỉ ngơi; sau thời gian này, các vị sẽ lại lên đường. Và lần này, đừng có vô phúc mà quay về như vậy nữa!”;

2- Cha Jacques Dournes kể lại trong quyển ‘Dieu aime les païens’ việc đức cha Paul Seitz đưa cha đến vùng truyền giáo ở Cheo Reo, Phú Bổn, như sau:

Hôm ấy là ngày mồng một tháng 8 năm 1955 vào lúc 6 giờ chiều. Màu xám xịt của khung trời ngột ngạt tạo cảnh não lòng cho làng Cheo Reo, lúc chiếc xe của Đức Giám Mục tới, đem một vị thừa sai đến nhiệm sở mới. Ở đây không ai chờ đợi ngài. Hơn nữa, không ai muốn dung nạp ngài. Cho đến thời ấy, cư dân vùng này chưa bao giờ nghe giảng Tin Mừng, vì họ từ chối. Nhưng Đức Giám Mục lại muốn rao giảng Tin Mừng cho họ. Ngài để vị thừa sai và rương hòm trên mảnh đất khô cằn trước những chiếc nhà sàn đóng kín.

Chiều lại, những người thượng Indiêng-Jơrai từ nương rẫy về nhìn thoáng qua cách lãnh đạm những con người xa lạ ấy; màu da sậm đen như màu áo, họ chui vào túp nhà sàn tranh tối tăm. Qua một người thông ngôn, hai vị giáo sĩ xin một chỗ tạm trú trong làng.

– Các ông không biết sao, không một người ngoại quốc nào có thể sống ở đây. Trời rất nóng nực.

– Đầy muỗi và chuột chạy khắp nơi!

– Và đàng khác, chúng tôi không có gì để ăn!

Một bà lớn tuổi trong làng, trung thành với truyền thống hiếu khách của dân tộc trước kia vốn dân du canh du cư:

– Trời đã tối, không thể để người ngoại quốc này ở ngoài nhà, vì như vậy là bỏ họ cho cọp rình rập.

– Cho ông ấy vào đây, nội đêm nay!

Và họ cho ngài ở tạm một đêm!

Vào 7 giờ, vị Giám Mục ra về, để lại người đại diện của mình vun trồng Giáo hội tại Cheo Reo”[11].

– Đào tạo: Để môn đệ – thừa sai có thể tự tin và nhiệt huyết thi hành sứ mạng, thì giai đoạn đào tạo trong các chủng viện và học viện là rất quan trọng. Một phần, họ thủ đắc linh đạo truyền giáo, kiến thức về truyền giáo học, đồng thời họ có thời gian chuẩn bị cho sứ mạng tuyệt vời, tích lũy tâm hồn đầy niềm say mê Chúa, mở lòng cho Chúa Thánh Thần đào tạo mình.

Giáo hội Việt Nam cho đến nay, sau 400 năm đón nhận Tin Mừng, vẫn còn là miền truyền giáo, trực thuộc Bộ Phúc Âm Hóa các dân tộc. Xem ra chúng ta vẫn còn bình chân như vại, ngại ngùng thi hành sứ mạng. Ở các học viện và chủng viện có môn Truyền giáo học, Lịch sử Truyền giáo, Thần học Truyền giáo, Mục vụ Truyền giáo…, nhưng không được coi trọng. Các chủng sinh sau khi chịu chức, thường bằng lòng với việc mục vụ cho chiên trong đàn, ít hướng đến chiên ngoài đàn, chiên lạc đàn… Cha Ngô Phúc Hậu trong ‘Nhật ký Truyền giáo’ kể câu chuyện như sau:

Chủ đề tĩnh tâm Giáo phận năm nay là truyền giáo. Đức Giám mục hô hào đẩy mạnh phong trào truyền giáo. Phương pháp truyền giáo là phát triển Dân Sinh, Dân Trí và Dân Đạo…. Bất ngờ ngài nói với anh em một câu của một vị thừa sai nào đó: “Linh mục Việt Nam chỉ có tài coi sóc họ đạo, chứ không biết gầy dựng họ đạo”.

Vì tự ái dân tộc, mình giơ tay và đứng bật lên như một cái lò xo:

– Thưa Đức cha, không phải linh mục Việt Nam không biết gầy dựng họ đạo, nhưng vì chưa có “Bài sai» (Văn thư bổ nhiệm một linh mục do Đức Giám Mục ấn ký) của Đức cha.

Mình hung hăng chừng nào thì Đức Giám mục bình tĩnh chừng ấy. Với giọng trầm buồn, ngài thủng thẳng trả lời:

– Tôi biết đi truyền giáo thì thiếu thốn và cực khổ nhiều lắm, nên không nỡ tâm sai các cha đi. Cha nào tình nguyện thì tôi mới dám. Vậy cha nào tình nguyện thì giơ tay lên.

Mình đếm được sáu cánh tay giơ thật cao và thật thẳng: Hai cha già, hai cha sồn sồn, và hai cha trẻ. Đức Giám mục cười và khôi hài:

– Các cha đi truyền giáo thì bỏ họ đạo, bỏ chủng viện, bỏ trường học cho ai?

Cả hội trường cười hì một cái. Thế là đánh trống bỏ dùi. Vấn đề truyền giáo chỉ được nêu lên như một sự gợi ý và thăm dò. Rồi đây, sau tuần tĩnh tâm, ai nấy lại trở về với họ đạo của mình và tiếp tục rao giảng Tin Mừng cho người đã nghe. Tuyệt nhiên không nghĩ gì, không làm gì cho người lương dân, những người chưa bao giờ được nghe Tin Mừng”[12].

Chúng ta hãy so sánh lòng nhiệt huyết, sự năng động, tính quyết liệt của vít vồ tây và ta, cố tây và cha ta, xưa và nay!

Nói đến đào tạo, thì cũng là nói đến thần học về sứ mạng. Theo cha José Cristo Parades, thần học về đời sống thánh hiến và về mọi hình thức đời tu, chiêm niệm và tông đồ, về các lời khấn, cộng đoàn… phải bắt đầu từ sứ mạng như là nguồn gốc lý do hiện hữu của nó. Ngài mong ước việc đào tạo trong tương lai cho các tu sĩ được hình thành theo con đường này.

V. Một số nhận định:

1. Tại Giáo Hội Việt Nam hiện nay, trong lãnh vực học thuyết lẫn thực hành, thần học và mục vụ, sứ mạng học vẫn chưa được quan tâm đúng mức. E rằng việc học hỏi lý thuyết sơ sài không đủ để khơi lên ngọn lửa nhiệt huyết tông đồ, thì các linh mục và tu sĩ khó lòng hăng say truyền giảng Tin Mừng kết quả được. Trong trao đổi thư tín mới đây với cha Văn Yên SJ, đang làm việc tại Đài Vatican News, cha ấy có nhận định: “Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng về một “Giáo Hội đi ra” vẫn chưa được áp dụng nhiều trong Giáo hội tại Việt Nam, cả về cơ cấu lẫn tinh thần của tín hữu”.

2. Giáo Hội Việt Nam chúng ta còn đang loay hoay với việc xây dựng cơ sở, phát triển hội dòng mà chưa đặt trọng tâm vào việc thi hành sứ mạng. Nhân lực và vật lực chưa được vận dụng đúng và đủ cho việc thi hành sứ mạng, trách sao Giáo Hội không phát triển. Trong khi đó, anh em Tin Lành không chú tâm tới cơ sở vật chất mà dồn mọi nỗ lực cho sứ mạng, nên họ phát triển rất nhanh (vd: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La).

3. Nói rằng mọi hoạt động của người thánh hiến cách nào đó đều liên quan đến sứ mạng thì cũng đúng, nhưng cũng phải sẵn sàng dành người cho các hoạt động chuyên biệt và trực tiếp đến sứ mạng (như Phaolô và Barnaba được Thánh Thần dành riêng để truyền giáo cho dân ngoại). Liệu có dám dành 50% nhân sự cho sứ mạng này không ?

4. Hoàn cảnh ở dưới chế độ vô thần hiện nay tại Việt Nam không cản trở sứ mạng, chúng ta vẫn có trong tay mọi phương tiện hiện đại để loan báo Tin Mừng, chỉ tại ta không có nhiệt huyết thôi. Cần áp dụng điều ĐGH Gioan-Phaolô II đã nói: “Công cuộc Tân Phúc Âm Hóa đòi nhiệt huyết mới, phương pháp mới và cách trình bày mới”. Phải chăng ta vẫn sống cho mình, tu cho mình, chứ chưa sống cho anh em. “Hôm nay chúng ta đang thấy nơi nhiều người hoạt động mục vụ, gồm cả những người thánh hiến nam cũng như nữ, một sự quan tâm quá mức về tự do và sự thoải mái của bản thân, khiến họ coi công việc của mình như chỉ là một cái gì phụ thuộc chứ không phải một thành phần thuộc căn tính của họ. Đồng thời, đời sống thiêng liêng trở nên bị đồng hoá với một ít việc thực hành tôn giáo có thể đem lại một sự an ủi nào đó chứ không khuyến khích việc gặp gỡ người khác, dấn thân vào thế giới hay một niềm say mê loan báo Tin Mừng. Hậu quả là chúng ta thấy nhiều người hoạt động rao giảng Tin Mừng, tuy họ vẫn cầu nguyện, nhưng có một lối sống rất cá nhân chủ nghĩa, một sự khủng hoảng căn tính và sự nhiệt tâm trở nên nguội lạnh. Cả ba điều xấu này tác động lẫn nhau” (EG số 78).

5. Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định: “Giáo Hội phải ở trong trạng thái truyền giáo, không ngưng nghỉ” (EG số 25). Hãy tránh thái độ hô khẩu hiệu, căng biểu ngữ ‘Hãy đi loan báo Tin Mừng khắp nơi nơi’ rồi chẳng làm gì! Tính cấp bách của sứ mạng phải thôi thúc ta.

6. Năm nay, 2019, kỷ niệm 100 năm Đức Thánh Cha Bênêđictô XV ban hành Tông thư Maximum Illud. Đọc lại Tông thư này, ta thấy Đức Thánh Cha khích lệ những người thánh hiến tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ngài có những lời huấn dụ cụ thể về việc thi hành sứ mạng quan trọng này. Chúng ta nên đọc lại Tông thư này để thúc đẩy mình hơn.

7. Tháng 10 năm 2019 được tổ chức đặc biệt hơn các năm khác, gọi là ‘Tháng ngoại thường về truyền giáo’ (Mois Missionnaire Extraordinaire 2019, với đề tài “Được rửa tội và được sai đi” – Baptizés et envoyés – Baptized and sent), nhằm khuyến khích mọi tín hữu ý thức mình được Rửa tội và sai đi thi hành sứ mạng, thế thì huống gì là người sống đời thánh hiến, xét như là linh mục và tu sĩ, thì càng cần ý thức về sứ mạng hơn. Ủy ban Loan báo Tin Mừng đã dịch các bài suy niệm về sứ mạng trong tháng 10 năm 2019 và đã phổ biến rộng rãi, để như tài liệu giúp đào sâu ý thức về sứ mạng này.

8. Cũng năm 2019, Ủy ban Loan báo Tin Mừng đã mời gọi tái lập hay lập mới tại Việt Nam bốn Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo (Œuvres Pontificales Missionnaires), nhằm khích lệ việc tham gia vào sứ mạng, đó là:

– Hội Giáo Sĩ Truyền Giáo (Œuvre Pontificale Missionnaire);

– Hội Thiếu Nhi Truyền Giáo (Œuvre Pontificale de l’Enfance Missionnaire);

– Hội Truyền bá Đức Tin (Œvre Pontificale de la Propagation de la Foi),

– Hội Thánh Phêrô (Œuvre Pontificale de Saint-Pierre Apôtre).

Chúng tôi mời gọi các linh mục giáo phận và tu sĩ tham gia vào các hội Giáo Hoàng này (dĩ nhiên là trừ Hội Thiếu Nhi Truyền Giáo!).

Tôi xin kết thúc bài thuyết trình với nguyện ước như cha José Cristo Rey García Paredes: “Xin Chúa Thánh Thần, như Người đã thấm nhập Đức Maria, Thánh Giuse, Thánh Êlidabét, Chúa Giêsu và các Đấng Sáng Lập các Tu Hội thế nào, thì cũng thấm nhập chúng ta và biến đổi cuộc đời chúng ta thành một biểu hiện sống động của Sứ Mạng[13].

WHĐ (29.8.2020)
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 114 (Tháng 9 & 10 năm 2019)