Nghệ thuật thị giác có vị trí nào trong lòng Giáo hội?


NGHỆ THUẬT THỊ GIÁC CÓ VỊ TRÍ NÀO TRONG LÒNG GIÁO HỘI?

Gioan Lê Quang Vinh

WHĐ (12.01.2022) – Trong phạm vi bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về chỗ đứng của nghệ thuật thị giác, đặc biệt là hội hoạ trong lòng Giáo Hội Công giáo, một Giáo Hội tôn thờ Thiên Chúa – Nghệ sĩ tối cao và tuyệt đối lỗi lạc. Phần đầu bài viết xin được trình bày nhận định của phong trào Lausanne về vị trí của Nghệ thuật Thị giác qua các thời kỳ lịch sử.

Phong trào Lausanne là một phong trào quốc tế thúc đẩy “Toàn thể Hội Thánh đưa toàn bộ Lời Chúa đến cho toàn thế giới”. Bắt nguồn từ các hội nghị lịch sử tại Edinburgh (1910) và Berlin (1966), Phong trào Lausanne được khai sinh từ Công hội Quốc tế lần thứ nhất về công cuộc Phúc âm hoá thế giới, được nhà truyền giảng Tin Mừng Billy Graham kêu gọi và được tổ chức tại Lausanne, Thụy Sĩ vào tháng 7 năm 1974. Thành quả nổi bật của Công hội này là Hiệp ước được 2.430 tham dự viên từ 150 quốc gia ủng hộ. Hiệp ước này tuyên bố bản chất của đức tin Kitô giáo như đã được tuyên bố suốt lịch sử trong các kinh Tin Kính, và thêm vào đó chiều kích sứ mạng thừa sai rõ ràng về đức tin của chúng ta. Nhiều hoạt động đã được xúc tiến từ Công hội Lausanne – Công hội thứ hai được tổ chức ở Manila năm 1989. Bản Hiệp ước (viết bằng nhiều ngôn ngữ), các sự kiện mang tính tôn giáo và những hội nghị chuyên biệt đã được tiến hành nhân danh Lausanne.

Chủ đề của Diễn đàn về Phúc âm hoá Thế giới tổ chức năm 2004 tại Thái Lan là “Một Tầm Nhìn Mới, Một Trái Tim Mới và Một Ơn Gọi Đổi Mới”. Tài liệu đặc biệt của Lausanne số 46 trong Diễn đàn này nói về việc Phục hồi Nghệ thuật theo đúng ý định của Thiên Chúa.

I. NGHỆ THUẬT THỊ GIÁC TRONG GIÁO HỘI QUA CÁC THỜI KỲ

Thời sơ khai, Giáo Hội tuân theo từng câu chữ trong giới răn cấm thờ ngẫu tượng. Và do đó trong một số trường hợp, nghệ thuật tạo hình cũng bị cấm. Nhưng theo nhận định của Uỷ ban Lausanne thì “Việc quảng diễn Kinh Thánh như thế không thể lý giải được bởi vì chính Thiên Chúa đã truyền thực hiện nghệ thuật biểu tượng cho Nhà Tạm. Đền thờ do vua Solomon xây dựng cũng có tràn đầy vẻ đẹp của các hình thức và biểu tượng nghệ thuật đa dạng. Một nghiên cứu cẩn thận về đời sống của người Do Thái cũng cho thấy rằng chính việc thờ phượng chứ không phải việc làm nghệ thuật mang tính thờ ngẫu tượng mà phải bị cấm”.[1]

Uỷ ban Lausanne cũng nhấn mạnh rằng “Linh đạo theo thánh Augustinô dạy rằng con đường dẫn đến Thiên Chúa đi qua đời sống nội tâm của linh hồn và không qua bất kỳ sự hiểu biết nào về thế giới vật chất, bao gồm sự biểu hiện qua nghệ thuật. Ý niệm của linh đạo này vẫn còn ảnh hưởng rất lớn đến chúng ta ngày hôm nay”.[2]

Tuy nhiên, ngay từ thời sơ khai, nhiều tranh ảnh đã được tìm thấy trong hang toại đạo diễn tả Kinh Thánh, lịch sử, phụng vụ với mục đích giáo huấn. Vào thế kỷ thứ 5, người ta tôn thờ Thánh giá Chúa Kitô. Đức giám mục Leon trả lời hoàng đế Juliano rằng “chúng tôi tôn sùng chính Chúa Kitô trong ảnh tượng Ngài hay các tông đồ, tử đạo”.

Vào thời Trung cổ, các tu viện được trang hoàng bằng những tác phẩm nghệ thuật thị giác tinh vi và đắt tiền. Người ta vẫn đồng ý rằng hình ảnh thị giác là một nguồn giá trị, thậm chí không thể thiếu trong việc giảng dạy, đặc biệt khi dạy cho những người mù chữ. Ở khía cạnh này, việc sử dụng nghệ thuật thị giác bên Tây phương hơi khác biệt so với cách sử dụng trong Giáo Hội Byzantine (Chính thống giáo Đông phương), nơi mà các linh ảnh không được xem như những dụng cụ giáo khoa, nhưng như những biểu hiện hay liên kết với các vị thánh được linh ảnh trình bày.

Vào thời Phục hưng, nghệ thuật Công giáo phát triển mạnh mẽ. Thời Phục hưng có lẽ là thời kỳ nghệ thuật Kitô giáo đã sản sinh ra nhiều tài năng hội hoạ nhất ở khắp Âu châu, đặc biệt là ở Ý, với Masaccio, Fra Angelico, Paolo Uccello, Piero della Francesca, Filippo Lippi, Ghirlandaio, Botticelli, Pietro Purigino, Raphael, Leonardo da Vinci, Michelangelo, v.v.; ở Hà Lan, với Jan van Eyck, Van der Weyden, Petrus Christus, Hans Memling, Hugo Van der Goes, Gerard David, và cả một trường phái được gọi là “trường phái nguyên khai Flamand”; ở Pháp, với Jean Fouquet, Engerrand Quarton, và ba anh em Limbourg; ở Đức, với Stefan Lochner, Albrecht Durer; ở Bồ Đào Nha, với Nuno Gonẹalves v.v…

Vào thời kỳ này, nghệ thuật thị giác đóng vai trò trung tâm trong phụng vụ và đời sống thánh hiến của Giáo Hội. Các nhà thờ Chính toà, các tu viện và các nhà thờ giáo xứ được trang hoàng bên trong cũng như bên ngoài bằng những bức bích hoạ, điêu khắc và kính màu, trong khi tài nghệ tinh xảo và các vật liệu giá trị được sử dụng một cách hào phóng trong các phẩm vật dùng trong phụng vụ. Các bản Kinh Thánh viết tay, các bài viết của các giáo phụ và những bài viết về phụng vụ và thần học khác được minh hoạ bằng những hình ảnh tinh xảo, đôi khi uy nghiêm và gây kinh sợ, đôi khi mang tính tường thuật cao và thậm chí bất thường.

Tin lành cải cách vào thế kỷ thứ 16 đã mở ra một kỷ nguyên mới. Các nhà thần học như Calvin cho rằng bất cứ việc sử dụng hình ảnh nào trong thờ phượng cũng dẫn đến việc thờ ngẫu tượng, mặc dù tài năng nghệ thuật trong những tình huống khác vẫn được coi là ân huệ Chúa ban và được đón nhận và được đánh giá cao. Vì thế Tin lành cải cách chú ý nhấn mạnh Lời Chúa như là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ, gần như xoá bỏ nghệ thuật thị giác.

Nhưng Công đồng Trentô xác định: “Xác của các thánh, các vị tử đạo là những chi thể sống động của Chúa Kitô, là đền thờ Chúa Thánh Thần sẽ được Ngài phục sinh và ban vinh quang, phải được các tín hữu tôn kính. Ảnh tượng Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và các thánh phải được trưng bày và bảo tồn trong các đền thờ và được tôn kính cách xứng đáng. Không phải là ta tin có thần tính hay năng lực nào trong ảnh tượng mà ta phải tôn kính, hay phải xin điều gì bởi ảnh tượng, hay phải tin vào ảnh tượng như các dân ngoại ngày trước đã đặt hi vọng vào nơi ngẫu tượng họ thờ, nhưng vì sự tôn kính ta tỏ cho ảnh tượng, lại quy về nguyên mẫu mà ảnh tượng biểu thị, đến nỗi qua ảnh tượng chúng ta tôn kính, cất mũ và quì lạy, chúng ta tôn thờ Chúa Kitô và tôn kính các thánh mà ảnh tượng biểu thị các ngài”.[3]

Nhóm Chống cải cách thế kỷ 16 và 17 là một thế lực đáng kể của Công giáo châu Âu. Hàng trăm tác phẩm rực rỡ của nghệ thuật tôn giáo đã được uỷ thác thực hiện, đa số các tác phẩm ấy mang tính nghệ thuật và đầy tình cảm sốt sắng với ý hướng khơi lên lòng đạo đức, sự sốt mến và lòng trung thành đối với Giáo Hội Công giáo và đối với giáo lý.

Nghệ thuật giá trị nhất của đầu thế kỷ 18 là nghệ thuật tôn giáo. Nhưng ở nửa sau thế kỷ ấy, thời mà Giáo Hội cơ cấu chịu nhiều phê bình gay gắt, nghệ thuật có khuynh hướng tái hiện các chi tiết trong đời sống thường nhật mà ít chú ý đến tôn giáo. Nghệ thuật hướng về thực tại trần thế, không phải các thực tại quê Trời. Vào thế kỷ 19, nghệ thuật trở thành một loại hình thay thế cho tôn giáo, và người ta tin rằng qua cảm thức thẩm mỹ, người ta có thể đạt tới kiến thức về Thiên Chúa. Nhưng cùng với sự tăng giá trị của người nghệ sĩ như nhân vật đặc biệt có thể sống bên ngoài những quy phạm tôn giáo và luân lý của xã hội, cũng xuất hiện các giọng nói tiên tri cảnh báo sự phá sản về luân lý của nghệ sĩ, và sự mất mát những giá trị thiêng liêng trong một xã hội ngày càng thế tục hoá.

Mike Aquillina đã viết như sau trong tác phẩm “Giáo Hội là của các bạn: Giáo Hội Công giáo có ảnh hưởng lớn đối với thế giới của chúng ta như thế nào”: “Giáo Hội cũng đã có một ảnh hưởng lớn trong cả âm nhạc và nghệ thuật. Chỉ cần bước vào bất kỳ nhà thờ chính tòa lớn nào là đủ để nhận ra tầm quan trọng của nghệ thuật trong Giáo Hội. Một trong những công trình vĩ đại nhất của thời Phục hưng là nhà nguyện Sistine, do Michelangelo vẽ và mô tả, đó là nơi mà các hồng y sẽ tiến hành bỏ phiếu để bầu vị giáo hoàng mới”.[4]

II. NGHỆ THUẬT THỊ GIÁC THẾ KỶ 20

Thế kỷ 20 chứng kiến sự xuất hiện của nhiều trường phái mỹ thuật nổi bật và phát triển mạnh mẽ, trong đó phải kể đến các trường phái Biểu hiện, Lập thể, Siêu thực, Trừu tượng, Nhận thức … Nhưng dường như các hoạ sĩ sáng tác với chủ đề tôn giáo không còn nhiều. Trong số ít những hoạ sĩ này, chúng ta thấy nổi bật lên Georges Rouault, người đã kết hợp được tài tình một truyền thống tranh thờ Kitô giáo lâu đời với thẩm mỹ hiện đại. Rouault thực hiện tác phẩm cuối đời của ông, tựa là Miserere (1948), với một đức tin có thể so sánh với đức tin của những hoạ sĩ-thày tu thời Phục hưng Ý.

Vì cách diễn tả của nghệ sĩ đi xa hơn các cảm thức về tôn giáo, cho nên các Kitô hữu đầu thế kỷ 20 ngày càng tách mình ra khỏi thế giới nghệ thuật. Vắng bóng dẫn đến mất ảnh hưởng. Tuy nhiên, trong khi thách thức trật tự hiện hữu của xã hội đi xa hơn, cuộc cách mạng xã hội và thiêng liêng của thập niên 1960 chứa đựng trong chính nó những hạt giống ươm mầm cho sự khai phóng trong sáng tạo. Trong suốt thời kỳ này, một số những người trẻ có óc sáng tạo đã theo Đạo, trở thành Kitô hữu, và họ tìm cách diễn đạt niềm tin mới khám phá được qua tài năng nghệ thuật của họ. Mặc dù phong trào lúc ban đầu chủ yếu hướng về âm nhạc đương đại, nhưng nó cũng bắt đầu loé lên mối quan tâm đến kịch nghệ, vũ điệu và nghệ thuật thị giác. Đồng thời, những người như Hans Rookmaaker và Francis Schaeffer, là những người tin vào Vương quyền Đức Kitô trên mọi lãnh vực của cuộc sống, bắt đầu đào luyện trong số những người tín hữu thế hệ mới này để họ hiểu được chỗ đứng của nghệ thuật trong thế giới quan của Kinh Thánh.

Tuy nhiên, số đông trong những cộng đoàn tín hữu vẫn thờ ơ với nghệ thuật. Họ không hiểu và cũng không được dạy về vị trí của nghệ thuật trong đời sống đức tin. Thật sự, nhiều người vẫn giữ một tinh thần sẵn sàng ngờ vực nghệ thuật và chất liệu của nghệ thuật nằm trong thiên nhiên.

Có nhiều dấu hiệu về sự thay đổi trong Giáo Hội ở hai thập kỷ qua, chẳng hạn một số đáng kể các Giáo Hội địa phương tỏ ra cởi mở với nghệ thuật và nghệ sĩ. Nghệ thuật đóng vai trò quan trọng hơn trong việc thờ phượng, và một vài Giáo Hội địa phương đã dành phần cho việc triển lãm tranh và những không gian trưng bày nghệ thuật thị giác, kịch nghệ và âm nhạc. Thêm vào đó, nhiều tổ chức cống hiến cho nghệ thuật đã được chính các Kitô hữu thành lập và có ảnh hưởng đáng kể trong việc đẩy mạnh nghệ thuật và lập các Hội Nghệ sĩ.[5]

III. GIÁO HỘI THỜI HIỆN ĐẠI VỚI NGHỆ THUẬT

Vào những thế kỷ gần đây, Giáo Hội ngày càng tỏ ra quan tâm đến nghệ thuật. Trong một bài diễn văn năm 1952. Đức Piô XII đã nói tầm quan trọng của nghệ thuật đích thực như sau: “Chức năng của mỗi nghệ thuật là vượt qua cái khung nhỏ hẹp đầy khắc khoải của cải bất tất, trong đó con người đang chìm ngập và mở ra một cánh cửa để cho tinh thần hướng về vô biên”.[6]

Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nghệ thuật trong đời sống con người: “Khi chuyên tâm học hỏi các bộ môn triết học, toán học, sử học, vạn vật học và trau dồi nghệ thuật, con người có thể góp phần lớn lao trong công cuộc thăng tiến gia đình nhân loại để đạt tới những giá trị cao cả của chân, thiện, mỹ, và một phán đoán giá trị phổ quát. Nhờ đó, con người được soi chiếu rạng rỡ hơn, do Đấng Khôn Ngoan kỳ diệu đã có bên Chúa từ thuở đời đời, cùng Chúa an bài mọi sự, nô đùa trên trái đất và vui sướng ở với con cái loài người.

“Cũng nhờ đó, tâm trí nhân loại bớt nô lệ sự vật và có thể dễ dàng bay bổng để thờ phượng và chiêm ngắm Đấng Tạo Hóa. Hơn nữa, con người còn được ân sủng thúc đẩy để nhận ra Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng trước khi nên thể xác để cứu chuộc và kết thâu muôn sự nơi Ngài, đã ở trong thế gian như “ánh sáng thật… vốn hằng soi sáng dương gian”.[7]

Trong Hiến chế về Phụng vụ thánh, Công đồng xác định: “Trong những hoạt động cao quí nhất của tài năng con người, rất đáng kể đến mỹ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo mà tột đỉnh của nghệ thuật này chính là nghệ thuật thánh. Tự bản tính, nghệ thuật thánh nhằm diễn tả một cách nào đó vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa qua những tác phẩm nhân loại; nghệ thuật này càng làm cho Thiên Chúa được ca tụng và tôn vinh hơn, một khi những tác phẩm đó không nhằm chủ đích nào khác ngoài sự góp phần tích cực vào việc đạo đức là hướng tâm trí người ta về cùng Chúa”.[8]

Vào dịp lễ Phục sinh năm 1999, Đức chân phước giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gửi cho các nghệ sĩ một bức Tông thư, trong đó ngài viết: “Mọi hình thức nghệ thuật chân chính, theo cách riêng của nó, đều là đường dẫn ta đến với thực tại sâu thẳm của con người và thế giới. Bởi vậy đó chính là một phương cách rất hiệu quả giúp ta đến với thế giới đức tin, cho kinh nghiệm sống của con người có được ý nghĩa cuối cùng của nó”.[9]

Đấng kế vị ngài là Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI cũng đã khẳng định “Thế giới cần vẻ đẹp chân chính và các nghệ sĩ có nhiệm vụ đem vẻ mỹ lệ cho con người qua con đường nghệ thuật” trong buổi triều yết tại nguyện đường Sistine ở Roma dành cho hơn 250 nghệ sĩ thuộc nhiều quốc gia, văn hóa và tôn giáo khác nhau vào năm 2009. Nhóm người này hoạt động nghệ thuật trong các lãnh vực như ca hát, sáng tác nhạc, viết văn, họa, kiến trúc, điêu khắc, diễn xuất và sản xuất phim ảnh.

Cuộc gặp gỡ này được tổ chức để kỷ niệm 10 năm Lá thư gửi các nghệ sĩ của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, và 45 năm cuộc họp tương tự của Đức giáo hoàng Phaolô VI với những người làm nghệ thuật tại nguyện đường Sistine. Trong buổi triều yết, Đức giáo hoàng một lần nữa xác định lại rằng ngay từ thời sơ khai “đã công nhận giá trị của nghệ thuật và đã khôn ngoan sử dụng ngôn ngữ khác nhau của nghệ thuật để biểu đạt thông điệp cứu độ không hề đổi thay của mình”

Ngài cũng nhấn mạnh đến cứu cánh của nghệ thuật: “Vẻ đẹp, dù là của vũ trụ tự nhiên hay được biểu hiện trong nghệ thuật, chính vì mở ra và làm rộng lớn chân trời hiểu biết của con người, đưa con người ra bên ngoài chính nó, mang con người đối diện với vực thẳm của Vô cùng, có thể trở thành con đường dẫn tới siêu nghiệm, tới Huyền nhiệm chủ yếu, tới Thiên Chúa.”

Và ngài khuyến khích các nghệ sĩ: “Vậy thì hãy biết ơn vì những quà tặng các bạn đã nhận được và ý thức đầy đủ về nhiệm vụ lớn lao của các bạn là truyền đạt vẻ đẹp, truyền đạt trong và qua vẻ đẹp! Qua nghệ thuật của các bạn, chính các bạn trở thành những sứ giả và chứng nhân niềm hy vọng cho nhân loại!”[10]

Sứ điệp của Thượng Hội đồng Giám mục XIII gửi cho thế giới có đoạn viết: “Chúng tôi cũng đặc biệt cám ơn những người dấn thân trong lãnh vực tế nhị này của tri thức. Chúng tôi muốn cám ơn những người nam nữ dấn thân trong một biểu thức khác của thiên tài con người, đó là nghệ thuật dưới những hình thức khác nhau, từ những hình thức cổ nhất cho đến những hình thức mới nhất. Chúng tôi nhìn nhận trong các tác phẩm nghệ thuật của họ có một con đường đầy ý nghĩa biểu lộ linh đạo trong lúc họ cố gắng thể hiện sự thu hút của con người đối với thẩm mỹ. Chúng tôi biết ơn, khi các Nghệ sĩ, qua các tác phẩm mỹ thuật của họ, diễn tả vẻ đẹp của tôn nhan Chúa và của các thụ tạo của Chúa. Con đường mỹ thuật là một con đường đặc biệt hữu hiệu trong công trình tái truyền giảng Tin Mừng”.[11]

Qua những văn kiện trên, chúng ta nhận thấy rõ ràng Giáo Hội không những nhìn nhận giá trị nghệ thuật, nhưng còn xem nghệ thuật là con đường dẫn đến siêu việt. Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi, chủ tịch Ủy ban Giám mục về Nghệ thuật thánh trực thuộc HĐGMVN đã làm cô đọng quan điểm của Giáo Hội về nghệ thuật khi ngài viết:

“Có thể nói nghệ thuật thánh một cách nào đó cũng thi hành ba tác vụ: ngôn sứ, tư tế, và vương đế. Nghệ thuật thánh thi hành tác vụ ngôn sứ khi nó truyền đạt cho con người những sứ điệp thánh thiêng và mời gọi họ suy nghĩ, cảm nghiệm và đón nhận. Đó là những sứ điệp bằng hình ảnh có sức gợi lên tâm tình và lôi cuốn sự chú ý. Nghệ thuật thánh thi hành tác vụ tư tế, bởi vì nó đóng vai trò cầu nối dẫn đưa con người đi vào huyền nhiệm của Thiên Chúa được trình bày qua những hình ảnh và biểu tượng, đưa cái thánh thiêng vào thế giới phàm tục, đưa thế giới thần linh đến cho con người, đồng thời biến đổi cái phàm tục thành thánh thiêng và dẫn đưa con người vào thế giới thần linh. Cuối cùng, nghệ thuật thánh thi hành tác vụ vương đế khi nó gợi lên những khuôn mẫu lý tưởng nhằm xây dựng con người và góp phần xây dựng vương quốc của Thiên Chúa nơi trần gian. Tóm lại, qua các hình thức diễn tả, nghệ thuật thánh bày tỏ các chân lý mạc khải, và trở thành biểu tượng của đức tin công giáo, góp phần xây dựng con người mới trong Đức Kitô” (Một Cái Nhìn về Nghệ Thuật Thánh).

IV. THAY LỜI KẾT LUẬN

Giáo Hội Chúa Kitô được thiết lập để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa qua công trình Cứu độ. Và Giáo Hội ấy không chỉ quan tâm đến việc cứu độ linh hồn con người mà thôi. Nhưng như chính Học thuyết Xã hội Công giáo nhấn mạnh, Giáo Hội còn muốn tiếp tục sứ mạng của Đấng Cứu thế, cứu độ chính con người ngay ở đời này. Và vì thế Giáo Hội chú tâm nâng cao và thánh hoá tất cả những thực tại liên quan đến con người. Nghệ thuật được hiểu là công trình của Thiên Chúa được biểu lộ qua bàn tay khéo léo của con người.

Như vậy rõ ràng làm nghệ thuật, nhất là nghệ thuật thánh, là thi hành sứ mạng của Giáo Hội. Do đó, chúng tôi xin dùng chính Học thuyết Xã hội Công giáo để kết luận bài viết này: “Các Kitô hữu phải hoạt động sao cho toàn bộ giá trị về chiều hướng tôn giáo của văn hoá được nhìn nhận. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách đối với phẩm chất của cuộc sống con người, cả về mức độ cá nhân lẫn xã hội. Vấn đề phát sinh từ mầu nhiệm sự sống và quy chiếu về mầu nhiệm cao cả hơn là mầu nhiệm Thiên Chúa nằm ở vị trí trung tâm của mọi nền văn hoá. Khi vấn đề này bị loại bỏ thì nền văn hoá và đời sống luân lý của các dân tộc cũng bị suy đồi. Chiều hướng tôn giáo đích thực là thành phần thiết yếu của con người và cho phép con người triển khai các hoạt động đa dạng của mình hướng về một chân trời rộng lớn để tìm thấy ở đó ý nghĩa và hướng đi cho các hoạt động này. Tính tôn giáo hoặc tâm linh của con người được thể hiện thành những hình thức được một nền văn hoá tiếp nhận và chính nó lại đem đến sức sống và nguồn cảm hứng cho nền văn hoá đó. Vô số các công trình nghệ thuật của từng thời đại làm chứng cho điều này. Khi chiều hướng tôn giáo của con người hay của một dân tộc bị phủ nhận, chính văn hoá bắt đầu suy tàn, đôi khi biến mất hoàn toàn”.[12]

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 77 (Tháng 7 & 8 năm 2013)