BÀI 18: LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
– Trong Lời nguyện chung, cũng gọi là Lời nguyện tín hữu, một cách nào đó cộng đoàn đáp lại lời Chúa mà họ vừa đón nhận trong đức tin và thực thi chức vụ linh mục nhận được qua bí tích Thanh Tẩy mà dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện cầu xin ơn cứu độ cho mọi người. Thường nên đọc lời nguyện này trong các Thánh lễ có giáo dân tham dự để cầu cho Hội Thánh, cho các nhà cầm quyền, cho những người đang gặp các khó khăn khác nhau, cho hết mọi người và cho toàn thể thế giới được ơn cứu độ (QCSL 69).
– Những ý nguyện thường theo thứ tự này là: a) Cho các nhu cầu của Hội Thánh; b) Cho các nhà cầm quyền và cho toàn thế giới được ơn cứu độ; c) Cho các người đang gặp bất cứ khó khăn nào; d) Cho cộng đoàn địa phương. Nhưng trong một buổi cử hành đặc biệt nào đó, như là Thêm sức, Hôn phối, An táng, thì thứ tự các ý nguyện có thể ưu tiên cho trường hợp đặc biệt đó (QCSL 70).
– Chính linh mục chủ tế sẽ điều khiển việc cầu nguyện tại ghế. Ngài nói vắn tắt mấy lời dẫn nhập mời gọi các tín hữu cầu nguyện và ngài đọc lời nguyện kết thúc. Những ý nguyện đưa ra phải giản dị, bằng những lời vắn tắt tự nhiên và thận trọng, diễn tả ý nguyện của toàn thể cộng đoàn. Thường thì các ý nguyện được đọc từ giảng đài hoặc một nơi khác thích hợp, do phó tế, hoặc do một ca viên, hoặc một độc viên, hoặc một tín hữu giáo dân. Còn cộng đoàn thì đứng và biểu lộ lời nguyện của mình, hoặc bằng lời kêu cầu chung sau mỗi ý nguyện được xướng lên, hoặc bằng cách cầu nguyện trong thinh lặng (QCSL 71).
II/ LỊCH SỬ
Trong phụng vụ hội đường, có đến 18 lời chúc phúc bao hàm những lời kêu xin cho những nhu cầu khác nhau của cá nhân và cộng đoàn. Chúng được đọc phối hợp với kinh Shema và mở rộng hơn chính kinh Shema bằng việc thêm vào những lời thỉnh nguyện và chúc tụng (Đnl 6,1-9).[1]. Ngay từ rất sớm, những lời cầu nguyện tương tự như vậy cũng là một thành phần trong phụng vụ của Hội Thánh cả bên Đông phương lẫn Tây phương.
Chứng cứ đầu tiên về Lời nguyện được gọi là Lời nguyện phổ quát/Lời nguyện chung là từ bút tích của Đức Clêmentê I (gởi cho giáo đoàn Côrintô) và của thánh Justinô tử đạo vào thế kỷ II. Thánh Justinô cho biết, khoảng năm 150 tại Rôma, khi cử hành Bí tích Thánh tẩy xong, “tất cả chúng tôi cùng đứng dậy và đọc những Lời nguyện chung” (I Apologia 67), “dâng Lời nguyện chung cho chính cộng đoàn, cho người vừa mới được khai tâm và cho dân chúng khắp nơi” (I Apologia 65,1).[2] Những lời nguyện này thật quan trọng đến độ các dự tòng không hiện diện, họ phải ra về sau cử hành Phụng vụ Lời Chúa với những công thức giải tán khác nhau.[3]
Tới thế kỷ III, nhờ bút tích của thánh Hippôlytô trong cuốn Truyền thống Tông đồ (Traditio Apostolica), người ta biết rõ những lời nguyện này là phần dành riêng cho các tín hữu, tức những người đã được thanh tẩy (Chương 19), chứ không phải của người còn đang học đạo.[4]
Đến thế kỷ IV, bên Đông phương, lời nguyện này mang hình thức kinh cầu (litanie) do một phó tế xướng các ý nguyện, sau mỗi ý nguyện, cộng đoàn Dân Chúa đáp bằng một công thức cố định dâng lên Chúa Kitô: Kyrie eleison (Lạy Chúa, xin thương xót chúng con). Khi kinh Kyrie chiếm vị trí tại phần khởi đầu của Thánh lễ, thì những Lời nguyện chuyển cầu bắt đầu biến mất, có lẽ dưới triều của Đức Vigilius (537-555).[5]
Cha A. Nocent đã quả quyết: từ thời thánh Justinô cho tới triều đại của Đức Fêlixê III (483-492), cấu trúc phần Phụng vụ Lời Chúa là: Bài đọc Sách Thánh, Thánh vịnh đáp ca, bài giảng, Lời nguyện tín hữu.[6] Khi lên ngôi Giáo hoàng, Đức Gelasio (492-96) đã soạn ra một kinh theo dạng kinh cầu Đông phương và truyền đọc trong cả Hội Thánh trong đó cộng đoàn sẽ đáp lại sau mỗi ý nguyện bằng điệp khúc “Lạy Chúa, xin lắng nghe và thương xót chúng con” (Domine, exaudi et miserere).[7] Nhưng chỉ một thế kỷ sau, từ thời Đức Grêgôriô Cả (thế kỷ VI), Lời nguyện chung bị quên lãng trong phụng vụ Rôma, mỗi năm chỉ đọc chúng một lần vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh, cho tới mãi Công đồng Vaticanô II mới tái lập (x. PV 53). Lý do được các sử gia như Callewaert và Jungmann đưa ra là vì trong Kinh nguyện Thánh Thể (Lễ quy Rôma) cũng đã có những Lời chuyển cầu cho các nhu cầu của Hội Thánh, vì thế không nên lập lại ở chỗ khác nữa.[8]
Sách lễ 1570 cho thấy có dấu vết của những lời nguyện này. Trước khi phần dâng lễ bắt đầu, chủ tế nói: “Chúng ta hãy cầu nguyện”, nhưng không có lời nguyện nào theo sau.[9] Mãi đến thế kỷ XX, Công đồng Vaticanô II mới tái lập lời nguyện này trong Thánh lễ. Hiến chế Phụng vụ Thánh của Công đồng Vaticanô II đã quyết định lấy lại Lời nguyện tín hữu trong Thánh lễ:
Phải tái lập “Lời nguyện chung” hay “Lời nguyện tín hữu”, sau Phúc Âm và bài giảng, nhất là những ngày Chúa nhật và lễ buộc, để khi dân chúng tham dự lời nguyện đó, họ cầu khẩn cho Hội Thánh, cho các nhà cầm quyền, cho những kẻ khốn khổ vì mọi nhu cầu khác nhau, cho tất cả mọi người, và cho phần rỗi của toàn thế giới (PV 53).
Hội Thánh mong ước ít là Lời nguyện chung được thực hiện vào các ngày Chúa nhật và lễ buộc (x. PV 5). Để thi hành nghiêm chỉnh quyết định này, Bộ Nghi lễ, với sự cộng tác của Hội đồng thực thi Hiến chế Phụng vụ Thánh, ngày 26/09/1964, đã ban hành Huấn thị Inter oecumenici (IOE 56), và năm 1966, đã xuất bản cuốn các Lời nguyện tín hữu mẫu dưới tựa đề là De oratione communi seu fidelium.[10] Ngày nay, Lời nguyện tín hữu đã được chính thức ghi vào Nghi thức Thánh lễ của Sách lễ Rôma công bố ngày 03/04/1969.[11]
III/ CÁC TÊN GỌI [12]
Đây là tên gọi lâu đời nhất của hình thức cầu nguyện này. Gọi là Lời nguyện chung (oratio communis) bởi vì: [i] Nó nói lên tính chất tham dự cao độ của cộng đoàn vào việc cử hành Lời Chúa, như rước lễ là tham dự trọn hảo nhất vào việc cử hành Thánh Thể. Bản chất của Lời nguyện chung là ở những câu đáp mà mọi giáo sĩ và giáo dân phải đọc lên (giúp thi hành chức tư tế chung của mọi tín hữu); [ii] Các ý cầu xin liên kết mọi tín hữu đang tản mác khắp nơi vào một kinh nguyện chung, và lo lắng cho nhu cầu chung của toàn thế giới.
Tên gọi được truyền thống ưa chuộng nhất là Lời nguyện tín hữu do sự kiện lịch sử là trước đây, những người chưa rửa tội chỉ được tham dự Thánh lễ cho tới khi giảng xong. Khi họ vừa ra về, toàn thể cộng đoàn đứng lên cầu nguyện, tức chỉ còn những người đã trở thành tín hữu mới có quyền tham dự.
Đây là tên gọi được sử dụng bởi các gia đình phụng vụ Đông phương, nhưng dễ lẫn lộn với Lời chuyển cầu trong Kinh nguyện Thánh Thể và ở những chỗ khác.
Người ta cũng gọi lời nguyện này là Kinh cầu, vì nó có hình thức của một kinh cầu, nghĩa là một người xướng lên ý nguyện, và cộng đoàn đáp lại bằng một lời kêu cầu vắn tắt.
Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma gọi kinh nguyện này là Lời nguyện phổ quát (oratione universali) nhằm gợi lên bản chất của nó: là kinh nguyện của mọi người và cầu cho mọi người (số 69, 139, 178, 190, 385).
IV/ Ý NGHĨA [13]
A. Lời nguyện hướng về các thực tại trần thế.
Lời nguyện tín hữu được coi như kết quả của việc các tín hữu nghe Lời Chúa và được Lời Chúa tác động trong lòng. Thực vậy, qua các Bài đọc Sách Thánh, những lời giải thích và khuyến cáo trong bài giảng, người tín hữu như hiểu được chương trình và ý định cúu độ của Thiên Chúa, hiểu được bổn phận của họ phải dấn thân để thực thi chương trình cứu độ ấy. Đồng thời họ cũng ý thức và cảm nghiệm được sự yếu đuối, bất xứng của mình, nên dâng lên Chúa những lời khẩn nguyện cho chính mình, cho mọi người, cho nhu cầu của thế giới, của cộng đoàn đang sống, cho các cấp bậc trong Hội Thánh, đặc biệt cho những người nghèo đói, bệnh tật hay đang lâm vào bất cứ tai ương hoạn nạn nào. Họ khẩn khoản xin Chúa đoái thương giơ tay nâng đỡ phù trì (QCSL 69) và nhìn đến nhu cầu của tất cả những ai mà họ cùng chia sẻ “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng” (Hiến chế Gaudium Et Spes, số 1). Khi đưa cuộc sống cụ thể vào trong buổi cử hành, Lời nguyện tín hữu nói lên sự dấn thân của người tín hữu trong thế giới và nhiệm vụ cụ thể của họ là xây dựng thế giới và Hội Thánh. Như vậy, đối tượng của lời cầu không chỉ gồm có những thực tại trên trời, nhưng cả những sự việc trần thế, những hoàn cảnh cụ thể hiện nay của thế giới.
B. Lời nguyện thể hiện chức tư tế do Bí tích Rửa tội.
Với sắc thái chuyển cầu, Lời nguyện phổ quát thể hiện chức năng tư tế của người Kitô hữu (x. 1Pr 2,9). Qua lời khẩn cầu, cộng đoàn phụng vụ, dù nhỏ bé đến đâu, cũng biểu lộ Hội Thánh muốn chu toàn sứ mạng của mình là “bày tỏ và thực hiện mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa đối với mọi người” (Gaudium Et Spes, số 45). Khi Dân Chúa cầu nguyện chính là Đức Kitô dùng môi miệng và lòng trí họ mà nguyện cầu (x. Kh 1,5-6). Khi Dân Chúa cầu nguyện, họ cùng đứng với Đức Giêsu trước ngai ân sủng mà chuyển cầu cho toàn thể nhân loại. Trong Cựu Ước, những lời chuyển cầu của Môsê, Aharon (x. Xh 17,11; 32,11; Ds 12,13), của Giêrêmia (15, 14), của Amos (7,1-6) là hình bóng của lời nguyện này.[14]
Trong Lời nguyện tín hữu, cộng đoàn còn diễn tả niềm tin vào mầu nhiệm các thánh thông công. Những người vắng mặt được nhắc đến trong lời nguyện, sẽ trở nên hiện diện một cách nào đó giữa cộng đoàn. Lời nguyện này là một trong những hành vi bác ái huynh đệ tuyệt hảo nhất, được thực hiện trong đức tin. Bởi vậy, ngày xưa, khi đọc xong lời nguyện này, các tín hữu trao hôn bình an cho nhau.[15]
C. Lời nguyện biểu lộ tình con thảo
Lời nguyện cho mọi người còn biểu lộ tình con thảo của người tín hữu đối với Thiên Chúa là Cha. Ngợi khen, tạ ơn và cầu xin là những việc làm phải đạo của con cái đối với Thiên Chúa. Từ đó, ta thấy Lời nguyện chung không chỉ mang tính khẩn cầu mà còn phải được thực hiện trong bầu khí tạ ơn, ngợi khen và chúc tụng Chúa. Một cộng đoàn Kitô hữu cầu nguyện trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô không bao giờ được quên tâm tình tạ ơn, chúc tụng và ngợi khen.
V/ CẤU TRÚC
A. Phần thứ I: Lời kêu mời của chủ tế
Đây là lời của chủ tế dưới hình thức lời kêu mời toàn thể cộng đoàn chứ không phải là lời cầu nguyện. Vị chủ tế hướng dẫn cộng đoàn chú ý đến Lời nguyện tín hữu và liên kết lời nguyện này với mầu nhiệm đang cử hành, với ngày lễ, hoặc mùa phụng vụ, hay với một vài khía cạnh đặc biệt của Lời Chúa vừa được công bố
B. Phần thứ II: Những ý nguyện
Đây là phần loan báo cho cộng đoàn các ý nguyện/thỉnh nguyện chứ không phải lời cầu nguyện hướng lên Thiên Chúa. Thầy phó tế hoặc nếu thầy vắng mặt, một thừa tác viên khác đọc một chuỗi những những ý nguyện với lời thưa của cộng đoàn sau mỗi ý nguyện.
C. Phần thứ III: Lời nguyện của chủ tế
Vị chủ tế hướng về Thiên Chúa, tóm tắt và nài xin Chúa thương chấp nhận lời cầu của cộng đoàn. Kết thúc lời nguyện, cộng đoàn thưa Amen.
VI/ CÁC Ý NGUYỆN
Để có thể thành Lời nguyện phổ quát/Lời nguyện chung, QCSL số 70 đòi phải hướng các ý nguyện vào 4 đối tượng/nhu cầu sau:
a) Cho các nhu cầu của Hội Thánh: Như sự hiệp nhất các Kitô hữu, ơn gọi linh mục, tu sĩ; công việc truyền giáo và các xứ truyền giáo; Đức Giáo hoàng, các Giám mục, linh mục, tu sĩ, các người dự tòng v.v…
b) Cho các người trong chính quyền và cho toàn thế giới được ơn cứu độ: Như nền công lý và hòa bình, những vấn đề xã hội, các vị lãnh đạo, giới công nhân, nông dân, những người sống tại thôn quê, những người không có nhà ở v.v…(x. 1 Tm 2.1-4).
c) Cho các người đang gặp bất cứ khó khăn nào: Như các bệnh nhân, những người nghèo đói, những người thất nghiệp, những người mù chữ, bị tù đày, đang hấp hối v.v. Cũng nên nhớ là ngoài đau khổ thể xác còn có những nỗi khổ của tâm hồn, tỉ dụ những người đang bị khủng hoảng về luân lý, những người mất đức tin, mất hy vọng…
d) Cho cộng đoàn địa phương: Đời sống cộng đoàn phải được đem vào lời kinh, vì thế nên cầu cho các thanh niên nam nữ sắp kết hôn, những em đang dọn mình xưng tội, rước lễ lần đầu hay lãnh nhận bí tích Thêm sức, những người mới qua đời v.v. Dĩ nhiên cũng phải cầu nguyện cho những người đang hiện hiện trong cộng đoàn phụng vụ.
Nhưng trong một buổi lễ cử hành đặc biệt nào đó, như là Thêm sức, Hôn phối, An táng, thì thứ tự ý nguyện có thể dành ưu tiên cho trường hợp đặc biệt đó.
VII/ MỤC VỤ
1/ Chúng ta không chỉ dâng lời nguyện tín hữu vào lễ Chúa nhật/lễ trọng/những dịp đặc biệt, nhưng Hội Thánh khuyến khích dâng lời nguyện tín hữu trong mọi Thánh lễ có giáo dân tham dự (x. PV 53; QCSL 36, 69, 264).[16]
2/ Đối với ý nguyện thứ IV “Cầu cho cộng đoàn địa phương”: nên hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là bao gồm mọi thành phần Dân Chúa trong địa phận, trong họ đạo dù có mặt hay vắng mặt trong buổi cử hành. Sau ý nguyện này, có thể nêu những ý lễ của thánh lễ ấy, kể cả danh tánh một vài tín hữu đã qua đời theo ý chỉ tương ứng với bổng lễ vị tư tế đã nhận (x. QCSL 355).[17]
3/ Việc soạn lời nguyện tín hữu và nêu các ý nguyện cần lưu ý những điểm sau đây:
– Sử dụng lời nguyện tín hữu trong các sách xuất bản như một tham khảo và khơi nguồn cảm hứng hơn là đọc y nguyên vì ý nguyện cần đi sát với đời sống thực tế, phản ánh những mối quan tâm và nhu cầu hiện tại của cộng đoàn, Hội Thánh và thế giới và thích nghi hết sức có thể với mỗi buổi cử hành. Làm như vậy sẽ vất vả hơn, nhưng lại trung thực hơn và mang tính giáo dục đức tin hơn.
– Không nên để cho một người soạn lời nguyện tín hữu hoài và những người biết rõ nhu cầu của giáo xứ được coi là thích hợp nhất cho nhiệm vụ này.[18]
– Ý nguyện có thể soạn theo hai cách. (a) Một là “Ý nguyện trực tiếp”: đi thẳng vào nhu cầu mà không có lời dẫn trước; (b) Hai là “Ý nguyện gián tiếp”: gồm 2 phần: nêu ra lý do trước (phần 1) rồi mới tới lời nài xin (phần 2). Lý do có thể là một phẩm tính của Thiên Chúa, một giáo huấn của Hội Thánh, một kinh nghiệm sống đức tin…,[19] hoặc từ các bản văn Kinh Thánh vừa mới công bố trước đó.[20]
– Mỗi ý nguyện phải vắn gọn, đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu; không mang dáng vẻ tình cảm ủy mị, ướt át, phóng đại và đừng chú trọng quá đến ý tưởng cao siêu, trừu tượng, mơ hồ, ẩn dụ;[21]
– Không nên gói ghém vào trong một ý nguyện tất cả một giáo thuyết/một bài học hay dồn nhiều điều xin/ý xin vào trong một ý nguyện;[22]
– Không cá nhân hoá lời nguyện tín hữu bằng cách đề cao hay khen ngợi người nọ người kia/nhóm nọ nhóm kia, cũng không phản ánh quá chặt chẽ các lợi ích thiêng liêng của một cá nhân, hoặc một nhóm trong cộng đoàn;[23]
– Tránh sử dụng lời nguyện tín hữu như một bài giảng ngắn về luân lý hoặc lên lớp dạy đời, hay như một bản cáo trạng, phê phán người khác hoặc thanh toán nhau cách trá hình.[24]
4/ Người xướng ý nguyện: nếu phó tế hiện diện, theo truyền thống, thầy là người ưu tiên nhất để xướng tất cả ý nguyện (QCSL 71, 94, 171, 177).[25] Nếu không có phó tế, các ý nguyện do một người khác xướng lên hoặc trong một số trường hợp, nhất là với cộng đoàn sử dụng nhiều ngôn ngữ, thì mỗi người xướng một ý nguyện, nhưng đừng bao giờ quá 6 ý nguyện (x. QCSL 71, 99, 138, 197; LNGM 144). Người loan báo ý nguyện/người xướng ý nguyện phải vào vị trí đã ấn định cho mình trước khi chủ tế đọc lời mời gọi cũng như tiếp tục đứng tại chỗ và hướng về chủ tế/bàn thờ cho đến khi chủ tế đọc xong lời nguyện kết thúc và cộng đoàn thưa “Amen” rồi mới di chuyển về chỗ của mình (x. QCSL 71).[26]
5/ Vị trí ưu tiên nhất để loan báo các ý nguyện là tại giảng đài như khi công bố Sách Thánh hầu giúp mọi người hiểu rằng: lời nguyện tín hữu nối kết với phần Phụng vụ Lời Chúa và là thành tố của phần này. Luật cho phép nêu ý nguyện ở một nơi khác thích hợp/thuận tiện, nhưng tốt nhất là người xướng ý nguyện ở trong cung thánh hay sát cung thánh mà cộng đoàn có thể thấy được, và quan trọng hơn, là có thể lắng nghe họ cách rõ ràng (x. QCSL 71, 138, 197, 309; BĐ 31; LNGM 144).[27]
6/ Sau lời mời gọi cộng đoàn cầu nguyện, mọi người có thể hát/đọc một lời đáp quen thuộc, hoặc im lặng một lát (x. QCSL 71, 138; BĐ 31). Thực hành thinh lặng sau mỗi ý nguyện thích hợp cho Mùa Vọng/Mùa Chay và giúp mọi người tham gia vào lời nguyện cách nội tâm hơn.[28] Thay vì chỉ đáp “Xin Chúa nhậm lời chúng con” cho mọi Thánh lễ, sau mỗi ý nguyện, chúng ta có thể đa dạng hoá lời đáp bằng cách cho in ra giấy hoặc trình chiếu lên màn hình một lời đáp khác làm nổi bật khía cạnh quan trọng của cử hành.[29] Lời đáp của cộng đoàn gợi lên thỉnh nguyện/cầu xin chứ không phải là lời chúc tụng, tạ ơn hay thống hối vốn là không thể thiếu trong các phần khác của thánh lễ.[30]
7/ Chính linh mục chủ tế sẽ điều khiển việc cầu nguyện tại ghế. Ngài nói vắn tắt mấy lời dẫn nhập mời gọi các tín hữu cầu nguyện; sau những ý nguyện, ngài dang tay đọc lời nguyện kết thúc (x. NTTL 20; QCSL 69-71, 138). Trước khi đọc lời nguyện kết thúc, chủ tế có thể dành ra ít giây thinh lặng cho mỗi người đưa ra những ý nguyện riêng (thầm) của mình.[31]
VIII/ SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, sau khi được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được soi sáng bởi bài giảng lễ, cộng đoàn chúng con thể hiện vai trò tư tế của mình khi dâng lên Chúa lời nguyện tín hữu. Chúng con tin rằng đó là một lời đáp thích ứng với Lời Chúa vừa được công bố. Lời nguyện chung này được so sánh giống như cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và cộng đoàn quy tụ và như một cuộc trò chuyện trong tâm tình cầu nguyện. Đây là hình một hình thức thờ phượng đặc biệt: Thiên Chúa nói và chúng con đáp lại bằng những lời thỉnh nguyện.
Lạy Chúa, chúng con tự hào vì Chúa đã ghi danh chúng con làm thành viên thuộc về dân tư tế của Chúa. Được gọi bước ra khỏi bóng tối mà vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền, chúng con cất lên tiếng nói của chúng con trong lời cầu nguyện tư tế. Trên đồi Canvê, Chúa đã dang rộng cánh tay để cầu nguyện trong tư cách là Thượng Tế và là Đấng Trung Gian của chúng con. Đau khổ và cái chết của Chúa là những biểu hiện sâu sắc nhất chức tư tế của Chúa. Ở đây và bây giờ, trên đồi Canvê của Thánh lễ, chúng con, những tín hữu của Chúa, đã được mặc trên mình chiếc áo rửa tội và thể hiện chức năng tư tế của mình, chúng con làm vang vọng trong lời nói của chúng con và bằng ngôn ngữ ngày nay chính lời cầu nguyện của Chúa trong tư cách tư tế.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cầu nguyện cho Hội Thánh. Xin Chúa hãy quy tụ và hiệp nhất Hội Thánh nên một; ước chi Kitô hữu không còn nói ra những lời chống trọi phản kháng nhau, không làm những gì gây tổn thương sự hiệp nhất của Hội Thánh. Chúng con cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo tinh thần của chúng con, cho những người nắm giữ chức vụ công cộng, cho những ai đang bị đè nặng bởi lương tâm của họ, cho những người đang phải đau khổ vì thiên tai. Lạy Chúa Giêsu, danh sách các ý nguyện của chúng con là một kinh cầu vô tận.
Lời nguyện tín hữu do đó cũng là một lời chuyển cầu đại đồng. Chúng con cầu nguyện cho mọi dân tộc, bất cứ ai và bất cứ nơi nào họ hiện diện, cho mọi loài thụ tạo được an khang. Chúng con cầu nguyện trong tư cách là Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Đó là lý do tại sao, ngay cả khi cộng đoàn phụng vụ của chúng con nhỏ bé hoặc cách xa những Kitô hữu khác, lời cầu nguyện của chúng con vừa cho chính chúng con lại vừa cho cả Hội Thánh hoàn vũ. Khi thế giới đang trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng, liệu chúng con có thể cầu nguyện cho những nhu cầu tầm thường của mình không? Khi cầu nguyện trong tư cách Hội Thánh, chúng con học cách quên đi những khó chịu bất tiện nho nhỏ của cá nhân mình trong cuộc sống. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho chúng con biết loại kinh nguyện nào đáng được Chúa Cha chấp nhận nhất: đó là cầu nguyện cho người khác, tức là cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh và thế giới.
Ngày thứ Sáu Tuần Thánh, các lời chuyển cầu long trọng là lời đáp của chúng con cho việc loan báo Tin Mừng về biến cố Chúa chịu nạn và chịu chết. Sự liên kết giữa chúng với nhau rất mạnh mẽ: lời cầu nguyện của chúng con được ghép với Lời Chúa. Nhờ sự bảo đảm chắc chắn bởi đức tin mà Chúa Cha đoái nhìn đến những lời cầu nguyện của chúng con bởi vì Người phát hiện trong đó hình ảnh của Chúa, Đấng chịu đóng đinh vì loài người chúng con. Mỗi ngày trong Thánh lễ, chúng con thu thập ý nguyện qua những lời chúng con nghe được và đọc được. Chúng con mặc cho chúng bằng sức mạnh của Lời Chúa. Chúng con nâng chúng lên như là chính lời của Chúa mà trở nên xác phàm trong kinh nguyện chuyển cầu của Hội thánh. Lạy Chúa Giêsu, chúng con nài van Chúa lắng nghe lời cầu nguyện tư tế của chúng con, bởi vì lời nguyện cầu này đại diện cho những giọt nước mắt và tiếng kêu xin khẩn nài của chính Chúa trong tư cách tư tế. Amen.