Vatican News
Sau đây là bản tiếng Việt nội dung cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha trên chuyến bay, được dịch từ bản tiếng Anh.
Jargalsaikhan Dambadarjaa (Defacto Gazete):
Xin cám ơn Đức Thánh Cha rất nhiều vì đã viếng thăm Mông Cổ. Câu hỏi của con là: mục tiêu chính của ngài trong chuyến thăm này là gì và ngài có hài lòng với kết quả đạt được không?
– Ý tưởng đến thăm Mông Cổ đến với tôi khi nghĩ về cộng đoàn Công giáo nhỏ bé. Tôi thực hiện những chuyến đi này để thăm viếng các cộng đoàn Công giáo và cũng để đối thoại với lịch sử và văn hóa của các dân tộc, với những gì là huyền nhiệm riêng của một dân tộc. Điều quan trọng là việc loan báo Tin Mừng không được cảm nhận như là việc chiêu dụ tín đồ. Việc chiêu dụ tín đồ luôn bó buộc. Đức Giáo hoàng Biển Đức nói rằng đức tin không phát triển nhờ chiêu dụ mà bằng sự thu hút. Loan báo Tin Mừng là bắt đầu đối thoại với văn hóa. Có việc Phúc Âm hóa văn hóa và có sự hội nhập văn hóa của Tin Mừng, bởi vì các Kitô hữu cũng thể hiện những giá trị Kitô giáo của mình bằng nền văn hóa của chính dân tộc của họ. Điều này hoàn toàn trái ngược với một sự thuộc địa hóa tôn giáo.
Đối với tôi, chuyến viếng thăm là để hiểu biết dân tộc Mông Cổ, để bắt đầu đối thoại với dân tộc này, để tiếp nhận nền văn hóa của dân tộc này và để đồng hành cùng Giáo hội trên hành trình của Giáo hội với lòng tôn trọng sâu sắc đối với họ và với nền văn hóa của họ. Và tôi hài lòng với kết quả này.”
Ulambadrakh Markhaakhuu (ULS Suld Tv)
Ngày nay, sự xung đột giữa các nền văn minh chỉ có thể được giải quyết thông qua đối thoại, như Đức Thánh Cha đã nói. Ulaanbaatar có thể đề nghị chính mình là nền tảng cho cuộc đối thoại quốc tế giữa Châu Âu và Châu Á không?
– Tôi nghĩ là có. Các bạn có một điều rất thú vị và điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đối thoại này và tôi muốn gọi nó là “sự huyền bí của người láng giềng thứ ba”. Các bạn nghĩ rằng Ulaanbaatar là thủ đô của một quốc gia xa biển nhất, và chúng tôi có thể nói rằng vùng đất của các bạn nằm giữa hai cường quốc là Nga và Trung Quốc. Và vì lý do này, sự huyền bí của các bạn là cố gắng đối thoại ngay cả với “các người láng giềng thứ ba”: không phải vì khinh thường hai nước này, bởi vì các bạn có mối quan hệ tốt với cả hai, nhưng bởi vì mong muốn sự phổ quát, mong muốn thể hiện giá trị của mình với toàn thế giới và cũng mong muốn nhận được từ những người khác các giá trị của họ để đối thoại.
Điều hiếu kỳ là trong lịch sử, việc đi tìm những vùng đất khác thường bị nhầm lẫn với chủ nghĩa thực dân, hoặc với việc xâm nhập để thống trị… luôn luôn. Các bạn thì ngược lại, với bí quyết về người láng giềng thứ ba này, các bạn có triết lý đi tìm kiếm, nhưng để đối thoại. Tôi rất thích thành ngữ “người láng giềng thứ ba” này. Đó là sự phong phú của các bạn.”
Cristina Cabrejas (EFE)
Hôm qua ngài đã gửi một thông điệp cho nhân dân Trung Quốc và yêu cầu người Công giáo hãy là những công dân tốt sau khi chính quyền nước này không cho phép các giám mục đến Mông Cổ. Hiện nay các mối quan hệ với Trung Quốc thì thế nào? Và có tin tức gì về chuyến đi của Đức Hồng Y Zuppi đến Bắc Kinh và sứ vụ ở Ucraina không?
– Sứ vụ của Đức Hồng Y Zuppi là sứ vụ hòa bình mà tôi đã giao phó. Và ngài đã lên kế hoạch đến thăm Moscow, Kiev, Hoa Kỳ và cả Bắc Kinh. Đức Hồng Y Zuppi là một người đối thoại tuyệt vời và có tầm nhìn phổ quát. Trong quá khứ ngài đã có kinh nghiệm làm việc ở Mozambique trong việc tìm kiếm hòa bình và đó là lý do tôi đã phái ngài đi.
Các mối quan hệ với Trung Quốc rất được tôn trọng, rất được tôn trọng. Cá nhân tôi rất ngưỡng mộ nhân dân Trung Quốc. Các kênh (liên lạc) rất cởi mở – về việc bổ nhiệm các Giám mục, có một ủy ban đã làm việc với chính phủ Trung Quốc và Vatican từ một thời gian dài. Sau đó có nhiều, hay đúng hơn là một số linh mục Công giáo hoặc những trí thức Công giáo thường được mời giảng dạy tại các trường đại học Trung Quốc.
Tôi tin rằng chúng ta phải tiến lên trong khía cạnh tôn giáo để hiểu nhau hơn và các công dân Trung Quốc đừng nghĩ rằng Giáo hội không chấp nhận văn hóa cũng như các giá trị của họ và rằng Giáo hội phụ thuộc vào một thế lực nước ngoài khác.
Ủy ban do Đức Hồng Y Parolin làm chủ tịch đang hoạt động tốt trên con đường thân thiện này: họ đang làm rất tốt công việc, cả về phía Trung Quốc, các mối quan hệ cũng đang tiến triển. Tôi rất tôn trọng dân tộc Trung Quốc.
Gerard O’Connell (America Magazine)
Thưa Đức Thánh Cha, các mối quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh hiện nay rất tích cực, gần đây các mối quan hệ này đã có bước tiến đáng kể. Nhiều người Công giáo Việt Nam xin ngài đến thăm họ như ngài đã đến Mông Cổ. Hiện nay ngài có cơ hội viếng thăm Việt Nam không? Có lời mời nào từ chính phủ không? Và ngài đã lên kế hoạch cho những chuyến viếng thăm nào khác?
– Việt Nam là một trong những kinh nghiệm đối thoại rất đẹp mà Giáo hội đã có được trong thời gian gần đây. Tôi có thể nói nó giống như sự đồng cảm trong đối thoại. Hai bên đều có thiện chí hiểu nhau và tìm cách để tiến tới; đã có các vấn đề, nhưng ở Việt Nam tôi tin rằng sớm muộn gì các vấn đề cũng sẽ được khắc phục.
Cách đây không lâu chúng tôi đã nói chuyện cách thoải mái với Chủ tịch nước Việt Nam. Tôi rất tích cực về mối quan hệ với Việt Nam; công việc đã được thực hiện tốt trong nhiều năm qua. Tôi nhớ cách đây bốn năm, một nhóm nghị sĩ Việt Nam đã đến viếng thăm: đã có một cuộc đối thoại tốt đẹp với họ, rất tôn trọng. Khi một nền văn hóa cởi mở thì có khả năng đối thoại; nếu có sự khép kín hay nghi ngờ thì đối thoại rất khó khăn. Với Việt Nam, cuộc đối thoại cởi mở, có những ưu điểm và nhược điểm, nhưng nó cởi mở và từ từ tiến tới. Có một số vấn đề, nhưng chúng đã được giải quyết.
Về việc viếng thăm Việt Nam, nếu tôi không đi thì Đức Gioan XXIV chắc chắn sẽ đi. Chắc chắn là sẽ có (một chuyến viếng thăm), bởi vì đó là vùng đất đáng để tiến tới, nơi tôi rất cảm mến.
Về những chuyến đi khác thì có Marseille và sau đó có một chuyến viếng thăm một quốc gia nhỏ bé ở Châu Âu và chúng tôi đang xem liệu mình có thể làm được hay không. Nhưng thành thật mà nói, đối với tôi, thực hiện một chuyến viếng thăm bây giờ không còn dễ dàng như lúc đầu. Có một số hạn chế trong việc đi lại và điều này hạn chế tôi. Nhưng chúng ta sẽ thấy.”
Fausto Gasparroni (ANSA)
Thưa Đức Thánh Cha, những phát biểu mới đây của ngài với giới trẻ Công giáo Nga về “người mẹ Nga vĩ đại”, di sản của những nhân vật như Pie Đại đế và Catarina II đã gây nên những tranh luận. Đây là những tuyên bố – có thể nói – đã gây khó chhịu, ví dụ, đối với người Ucraina, cũng gây ra hậu quả trong lĩnh vực ngoại giao và ở một mức độ nào đó được coi gần như là sự tán dương chủ nghĩa đế quốc Nga và thậm chí là một kiểu tán thành các chính sách của Putin. Con muốn hỏi ngài, tại sao ngài lại cảm thấy cần phải đưa ra những nhận xét này, nếu ngài suy tư về cơ hội đưa ra những nhận xét này, ngài có lặp lại chúng không? Và ngoài ra, để rõ ràng hơn, ngài có thể cho chúng con biết ngài nghĩ gì về chủ nghĩa đế quốc và đặc biệt là chủ nghĩa đế quốc Nga.
– Chúng ta hãy nói về bối cảnh: nó là một cuộc đối thoại với giới trẻ Nga. Và khi kết thúc cuộc đối thoại, tôi đã gửi cho họ một thông điệp, một thông điệp mà tôi luôn nhắc lại: hãy chịu trách nhiệm về di sản của họ. Điểm đầu tiên: tiếp nhận di sản của các bạn. Tôi cũng nói như vậy ở mọi nơi. Và với ý tưởng này trong đầu, tôi cố gắng tạo ra một cuộc đối thoại giữa ông bà và cháu chắt: rằng con cháu sẽ thừa kế di sản của họ. Tôi nói điều này ở khắp mọi nơi và đó là thông điệp.
Điểm thứ hai, làm rõ điều tôi muốn nói về di sản: trên thực tế, tôi đã đề cập đến ý tưởng về Nước Nga vĩ đại, bởi vì di sản Nga rất hay, rất đẹp. Hãy nghĩ về lĩnh vực văn học, âm nhạc, hãy nghĩ đến Dostojewski, người ngày nay nói với chúng ta về chủ nghĩa nhân văn trưởng thành. (Nga) đã đảm nhận chủ nghĩa nhân văn này, điều được phát triển trong nghệ thuật và văn học. Đây sẽ là khía cạnh thứ hai khi tôi nói về di sản, đúng không?
Điểm thứ ba, có lẽ không phù hợp, nhưng nói về nước Nga vĩ đại không phải theo nghĩa địa lý mà theo nghĩa văn hóa, tôi đã nhớ lại những gì chúng tôi đã được dạy ở trường: Pie Đại đế, Catarina đệ nhị. Và điểm thứ ba này xuất hiện, điều này có lẽ không hoàn toàn đúng. Tôi không biết. Hãy để các nhà sử học cho chúng ta biết. Nhưng đó là một điểm bổ sung xuất hiện trong đầu tôi vì tôi đã học nó ở trường.
Điều tôi nói với những người Nga trẻ tuổi là hãy chịu trách nhiệm về di sản của họ, hãy nhận lấy di sản của họ, nghĩa là đừng mua nó ở nơi khác. Hãy nhận lấy di sản của các bạn. Và di sản mà nước Nga vĩ đại đã để lại là gì? Văn hóa Nga có một vẻ đẹp rất tuyệt vời, và rất có chiều sâu; và không nên bị hủy bỏ vì các vấn đề chính trị. Đã có những năm tháng đen tối ở Nga, nhưng di sản của nó vẫn luôn tồn tại như vậy.
Rồi bạn nói về chủ nghĩa đế quốc, và tôi không nghĩ đến chủ nghĩa đế quốc khi nói điều đó. Tôi nói về văn hóa, và việc truyền tải văn hóa không bao giờ mang tính chất đế quốc, không bao giờ. Nó luôn luôn là đối thoại, và tôi đang nói về điều này.
Đúng là có những đế quốc muốn áp đặt ý thức hệ của mình. Tôi sẽ dừng ở đây: khi văn hóa bị chắt lọc và biến thành ý thức hệ thì đó là chất độc. Văn hóa được sử dụng nhưng được chắt lọc thành ý thức hệ. Chúng ta phải phân biệt văn hóa của một dân tộc với các ý thức hệ xuất phát từ một triết gia, một chính trị gia nào đó của dân tộc đó. Và tôi nói điều này cho mọi người, cũng như cho Giáo hội.
Trong Giáo hội thường có các ý thức hệ, những điều tách Giáo hội ra khỏi sự sống được bắt nguồn từ gốc rễ và đi lên. Chúng tách Giáo hội ra khỏi ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần. Một ý thức hệ không có khả năng nhập thể, nó chỉ là một ý tưởng. Nhưng khi ý thức hệ nắm quyền kiểm soát và trở thành chính trị, nó thường trở thành chế độ độc tài, phải không? Nó trở nên không thể đối thoại, không thể tiến tới với các nền văn hóa. Và chủ nghĩa đế quốc làm điều này. Chủ nghĩa đế quốc luôn củng cố trên cơ sở một ý thức hệ. Trong Giáo hội, chúng ta cũng phải phân biệt giữa giáo lý và ý thức hệ: giáo lý đích thực không bao giờ mang tính ý thức hệ, không bao giờ. Nó bén rễ nơi dân thánh trung thành của Thiên Chúa. Ngược lại, ý thức hệ tách rời khỏi thực tế, tách rời khỏi con người… Tôi không biết tôi đã trả lời câu hỏi của bạn chưa.
Robert Messner (DPA)
Xin chào. Một câu hỏi liên quan đến việc cập nhật tài liệu Laudato si’ của ngài: liệu nó có thể được hiểu như một sự thể hiện sự đồng cảm với các nhà hoạt động môi trường như “Thế hệ cuối cùng”, nhóm tổ chức các cuộc biểu tình quá khích? Có lẽ trong bản cập nhật này cũng có một thông điệp nào đó dành cho các nhà hoạt động trẻ xuống đường?
Nói chung, tôi không đề cập đến những kẻ cực đoan này. Nhưng giới trẻ lại lo lắng. Một nhà khoa học xuất sắc người Ý – chúng tôi đã có một cuộc gặp gỡ tại Hàn lâm viện (về Khoa học) – đã có một bài phát biểu hay và kết luận rằng: “Tôi không muốn cháu gái tôi, mới chào đời hôm qua, phải sống trong một thế giới tồi tệ như vậy trong ba mươi năm nữa.”
Người trẻ nghĩ về tương lai. Và theo nghĩa đó, tôi thích việc họ chiến đấu hăng hái. Nhưng khi có liên quan đến ý thức hệ, hoặc có liên quan đến áp lực chính trị hoặc được sử dụng vào mục đích này, thì nó sẽ thất bại.
Tông Huấn của tôi sẽ được công bố vào ngày lễ Thánh Phanxicô, ngày 4 tháng 10, và nó là một sự xem xét lại những gì đã xảy ra kể từ COP (Hội nghị biến đổi khí hậu) ở Paris, hội nghị có lẽ là hiệu quả nhất cho đến nay. Có một số tin tức về một số hội nghị COP và về một số vấn đề vẫn chưa được giải quyết và cần phải giải quyết chúng một cách khẩn cấp. Nó không là một tài liệu lớn như Laudato si’, nhưng là sự tiếp nối của Laudato si’ về những điều mới mẻ, và cũng là một phân tích về tình hình.
Etienne Loraillere (KTO TV)
Ngài muốn có một Giáo hội hiệp hành ở Mông Cổ và trên khắp thế giới. Đại hội (Thượng Hội đồng) tháng 10 đã là thành quả công việc của dân Chúa. Làm thế nào những người đã được rửa tội từ khắp nơi trên thế giới có thể tham gia vào giai đoạn này? Làm thế nào có thể tránh được sự phân cực về ý thức hệ? Và liệu những người tham gia có thể nói và chia sẻ một cách công khai những gì họ đang trải qua để cho phép đồng hành cùng họ không? Hay toàn bộ tiến trình sẽ được trình bày kín?
Bạn đã nói về cách tránh áp lực ý thức hệ. Không có chỗ cho ý thức hệ trong Thượng Hội đồng, vì nó là một động lực khác. Thượng Hội đồng là cuộc đối thoại giữa những người đã được rửa tội, giữa các thành viên của Giáo hội, về đời sống của Giáo hội, về việc đối thoại với thế giới, về những vấn đề ảnh hưởng đến nhân loại ngày nay. Nhưng khi người ta nghĩ (về việc thực hiện) một con đường theo ý thức hệ, thì Thượng Hội đồng kết thúc. Không có chỗ cho ý thức hệ trong Thượng Hội đồng, chỉ có chỗ cho đối thoại. Trò chuyện với nhau, như anh chị em, và thảo luận giáo lý của Giáo hội. Tiến về phía trước.
Tiếp đến, tôi muốn nhấn mạnh rằng tính hiệp hành không phải là phát minh của tôi: chính là Thánh Phaolô VI. Khi Công đồng Vatican II kết thúc, ngài nhận ra rằng ở phương Tây, Giáo hội đã mất đi chiều kích hiệp hành; Giáo hội Đông phương vẫn còn. Vì mục đích này, ngài đã thành lập Văn phòng Thư ký của Thượng Hội đồng Giám mục; trong sáu mươi năm qua, văn phòng này đã tiến hành việc suy tư theo cách thức hiệp hành, với sự tiến bộ liên tục, tiến về phía trước. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm quyết định này của Thánh Phaolô VI, tôi đã ký và công bố một tài liệu về Thượng Hội đồng là gì, và nó đang tiến triển thế nào. Và bây giờ nó đang tiến triển, nó đã chín mùi hơn, và vì lý do này, tôi nghĩ thật tốt khi có một Thượng Hội đồng về tính hiệp hành, điều vốn không phải là một trào lưu nhưng là một thực tế lâu đời, Giáo hội Đông phương luôn có nó.
Nhưng làm thế nào để chúng ta sống tính hiệp hành, và sống nó với tư cách là các Kitô hữu, như tôi đã nói trước đây, mà không rơi vào các ý thức hệ.
Về tiến trình của đại hội Thượng Hội đồng: có một điều mà chúng ta phải bảo vệ, đó là bầu khí hiệp hành. Đây không phải là một chương trình truyền hình nơi bạn nói về mọi thứ. Không. Có một khoảnh khắc tôn giáo, có một khoảnh khắc trao đổi tôn giáo. Trong phần giới thiệu của Thượng Hội đồng, mỗi người sẽ nói ba đến bốn phút, ba (bài phát biểu) và sau đó sẽ có ba đến bốn phút im lặng để cầu nguyện. Sau đó là ba bài nữa và cầu nguyện. Không có tinh thần cầu nguyện này thì không có tính hiệp hành, nó trở thành chính trị và nơi tranh luận như ở nghị viện. Thượng Hội đồng không phải là một nghị viện.
Về vấn đề riêng tư của các cuộc thảo luận: có một bộ phận do tiến sĩ Ruffini đứng đầu, người đang ở đây và sẽ đưa ra các thông cáo báo chí về tiến trình của Thượng hội đồng. Trong một Thượng Hội đồng, điều cần thiết là bảo vệ tính tôn giáo và bảo vệ quyền tự do của những người phát biểu. Về vấn đề này sẽ có một ủy ban, do Tiến sĩ Ruffini làm chủ tịch, sẽ cung cấp thông tin về tiến triển của Thượng Hội đồng.
Antonio PELAYO (Vida Nueva)
Thưa Đức Thánh Cha, ngài vừa nói về Thượng hội đồng và tất cả chúng con đều đồng ý với ngài rằng Thượng Hội đồng này đã tạo ra nhiều sự hiếu kỳ và quan tâm. Thật không may, nó cũng gây ra nhiều chỉ trích từ các thực tại Công giáo. (Bây giờ) con đề cập đến một cuốn sách có lời mở đầu của Đức Hồng Y Burke, người nói rằng Thượng Hội đồng là một “chiếc hộp pandora” mà từ đó mọi tai họa cho Giáo hội sẽ xuất hiện. Ngài nghĩ gì về quan điểm này? Ngài có nghĩ rằng nó sẽ bị thực tế khắc phục hay (quan điểm này) có thể ảnh hưởng đến Thượng Hội đồng?
– Tôi không biết liệu tôi đã nói điều này trước đây chưa. Cách đây vài tháng, tôi đã gọi điện cho một tu sĩ Cát Minh. “Các nữ tu thế nào rồi, thưa Mẹ Bề Trên?” Chị bề trên không phải là một nữ tu dòng Cát Minh người Ý. Và chị đã trả lời tôi. Và cuối cùng chị nói với tôi: “Thưa Đức Thánh Cha, chúng con lo sợ về Thượng Hội đồng này”. “Bây giờ chuyện gì đang xảy ra vậy?” Tôi nói đùa: “Chị có muốn gửi một nữ tu đến Thượng Hội đồng không?” “Không, chúng con sợ ngài sẽ thay đổi giáo lý.” Và đây là những gì sơ ấy đang nói, sơ ấy có ý tưởng này…
Nhưng nếu bạn đi đến tận gốc rễ của những ý tưởng này, bạn sẽ tìm thấy những ý thức hệ. Luôn luôn, khi người ta muốn tách rời khỏi con đường hiệp thông trong Giáo hội, điều luôn luôn kéo nó tách rời chính là ý thức hệ. Và họ buộc tội Giáo hội về điều này điều nọ, nhưng họ không bao giờ buộc tội về những điều là sự thật: (Giáo hội được tạo nên từ) những kẻ tội lỗi. Họ không bao giờ nói đến tội lỗi… Họ bênh vực một thứ “đạo lý”, một đạo lý tinh tuyền giống như nước cất không có mùi vị và không phải là đạo lý Công giáo đích thực như trong Kinh Tin Kính; và là những điều thường tạo nên cớ vấp phạm. Vấn đề Thiên Chúa đã nhập thể, Thiên Chúa đã trở thành con người, Đức Mẹ vẫn đồng trinh thì khó chấp nhận biết bao. Điều này gây nên cớ vấp phạm.
Cindy Wooden (CNS)
Xin chào Đức Thánh Cha, con muốn tiếp tục câu hỏi của bạn đồng nghiệp người Pháp của con về Thượng Hội đồng và việc thông tin. Rất nhiều giáo dân đã dành rất nhiều thời gian, cầu nguyện, tham gia vào việc nói và lắng nghe. Họ muốn biết điều gì đang diễn ra trong Thượng Hội đồng. Và ngài đã nói về kinh nghiệm của ngài về Thượng Hội đồng về các tu sĩ, trong đó một số người đã nói, “đừng đặt điều này…”, “Bạn không thể nói điều này…” Chúng con, những nhà báo, thậm chí không được tiếp cận Đại hội của Thượng Hội đồng và các phiên họp chung. Làm sao chúng con có thể chắc chắn rằng những gì chúng con được thông tin là sự thật? Không có cơ hội cởi mở hơn một chút với các nhà báo sao?
– Nhưng [nó] rất cởi mở, bạn thân mến; nó rất cởi mở! Có một ủy ban do [Paolo] Ruffini [Bộ trưởng Bộ Truyền thông Vatican] chủ trì sẽ đưa tin tức hàng ngày, nhưng cởi mở hơn, tôi không biết, cởi mở hơn, tôi không biết…
Thật tốt khi ủy ban này sẽ rất tôn trọng các bài phát biểu của mọi người và sẽ cố gắng không nói huyên thuyên, nhưng nói những điều chính xác về tiến trình Thượng Hội đồng, mang tính xây dựng cho Giáo hội. Nếu bạn muốn, nếu ai đó muốn rằng các tin tức là, “Người này đối lập người kia vì lý do này hay lý do kia,” thì đó là chuyện tầm phào chính trị.
Ủy ban không có một nhiệm vụ dễ dàng khi nói: “Hôm nay sự suy tư đã đi theo hướng này, nó đã diễn ra như thế này,” và truyền tải tinh thần giáo hội chứ không phải tinh thần chính trị. Một Nghị viện khác với Thượng Hội đồng. Đừng quên rằng nhân vật chính của Thượng Hội đồng là Chúa Thánh Thần. Và làm thế nào điều này có thể được truyền tải? Đây là lý do tại sao tiến trình của Giáo hội phải được chuyển tải.
Vincenzo Romeo (RAI TG 2)
Xin chào Đức Thánh Cha. Ngài là Giáo hoàng của các vùng ngoại vi, và các vùng ngoại vi, đặc biệt là ở Ý, đang phải chịu đau khổ rất nhiều. Chúng ta đã chứng kiến một số giai đoạn đáng lo ngại về bạo lực, suy thoái… Chẳng hạn, gần Napoli, một cha xứ, Cha [Maurizio] Patriciello [cha xứ ở Caivano] thậm chí còn mời ngài đến [đó], rồi đến Palermo [ở Sicilia]. Những gì có thể được thực hiện? Ngài đã đến thăm “các khu ổ chuột” ở Buenos Aires, vì vậy ngài có kinh nghiệm về việc này. Thủ tướng của chúng con cũng đã đến thăm một trong những vùng ngoại vi này. Có rất nhiều cuộc thảo luận. Có thể làm gì, Giáo hội và các tổ chức của Nhà nước có thể làm gì để vượt qua sự suy thoái này và biến các vùng ngoại vi thực sự là một phần của một quốc gia?
Bạn nói về những vùng ngoại vi, giống như các khu ổ chuột: bạn phải đi tới, bạn phải đến đó và làm việc ở đó, như đã được thực hiện ở Buenos Aires bởi các linh mục làm việc ở đó – một nhóm linh mục có một Giám mục phụ tá đứng đầu – và bạn làm việc ở đó. Chúng ta phải cởi mở với điều này, các chính phủ phải cởi mở, tất cả các chính phủ trên thế giới, nhưng có những vùng ngoại vi thật bi thảm.
Tôi quay lại với một vùng ngoại vi đầy tai tiếng mà người ta cố gắng che đậy: vùng ngoại vi của người Rohingya. Người Rohingya đau khổ. Họ không phải là Kitô hữu; họ là người Hồi giáo, nhưng họ đau khổ vì bị biến thành một vùng ngoại vi; họ đã bị đuổi ra ngoài. Chúng ta phải nhìn thấy các loại ngoại vi khác nhau và cũng biết rằng ngoại vi là nơi thực tại của con người hiển nhiên hơn và ít phức tạp hơn – [cũng có] những khoảnh khắc tồi tệ, tôi không muốn lý tưởng hóa – nhưng nó được nhìn nhận tốt hơn.
Một triết gia từng nói một điều khiến tôi vô cùng ấn tượng: “Thực tế được hiểu rõ nhất từ những vùng ngoại vi”. Chúng ta phải nói chuyện với những vùng ngoại vi, và các chính phủ phải thực hiện công bằng xã hội thực sự, công bằng xã hội thực sự, với những vùng ngoại vi xã hội khác nhau và cả với những vùng ngoại vi ý thức hệ, để khiến họ nói chuyện, bởi vì nhiều khi chính những vùng ngoại vi ý thức hệ tế nhị đó đã kích động những ngoại vi xã hội. Thế giới của các vùng ngoại vi không hề dễ dàng. Xin cảm ơn.