Lời cầu nguyện của ông Mô-sê
Xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài để con biết Ngài
(Xh 33,13)
Giê-ru-sa-lem, lễ Thiên Chúa Ba Ngôi 2020
Lm. Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J.
Lời phi lộ
Tôi đã viết hai bài quanh vụ «con bê bằng vàng» trong sách Xuất Hành (32-34), «Đọc lại sách Xuất Hành, vụ «con bê bằng vàng » và «Đường Xuất Hành mới». Những ngày gần đây liên tiếp có thêm những vị chức sắc trong Hội Thánh, những vị sáng lập các cộng đoàn sống thánh hiến, tông đồ, bác ái, bị đưa ra ánh sáng, thêm vào con số các vị đã bị đưa ra những năm gần đây, chưa kể các vụ đã xử lý âm thầm, hoặc còn trong vòng điều tra, vì nhiều thứ lạm dụng, từ tính dục đến quyền lực, tiền bạc, hoặc «ba trong một»… Nhiều ngươi theo dõi các tin tức này thắc mắc hoang mang về Hội Thánh, về đời tu. Có vị tu sĩ lão thành hỏi tôi: «Anh nghĩ sao ? Tôi trả lời : Thứ nhất là trên khuôn mặt Hội Thánh những vầng sáng vẫn nhiều hơn những vết đen. Chúng ta sống trong thời kỳ của nhiều vị thánh : Các vị thánh Giáo Hoàng Pi-ô X, Gio-an XXIII, Phao-lô VI, Gio-an Phao-lô II ; các thánh sáng lập từ Mẹ Tê-rê-sa Can-cút-ta đến Anh Charles [đã được công nhận, sắp được tôn phong] ; các thánh thuộc mọi bậc sống trong Hội Thánh của Chúa… chứng tỏ rằng Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động mãnh liệt hơn.
Thời Cải Cách Tin Lành còn nhiều chuyện kinh hồn hơn, khiến một thầy dòng thông minh như Luther tuyệt vọng về Hội Thánh và đề nghị giải pháp tận gốc : Xóa bỏ cái Giáo Hội do Rô-ma đứng đầu với mọi thứ phẩm trật, quyền bính… chỉ giữ lại Sách Thánh mà thôi, vì Lời Chúa mới ban ơn cứu độ. Thánh I-nha-xi-ô, Phi-lip-phê Nê-ri, Tê-rê-sa A-vi-la, và nhiều vị thánh khác đã giúp canh tân Hội Thánh từ bên trong tâm hồn mỗi người, vì Hội Thánh thành bởi những con người bằng xương bằng thịt, luôn cần được nâng đỡ, băng bó, chữa lành và bổ sức. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô ví Hội Thánh như «bệnh viện dã chiến». Tội lỗi càng gia tăng thì Thánh Thần càng hoạt động mạnh hơn.
Còn nói về những trang sử dang dở của các vị nói trên, thì có lẽ tương tự tình trạng mà thánh Phao-lô đã quở trách tín hữu Ga-lát : «Anh em đã khởi sự nhờ Thần Khí, nay lại kết thúc nhờ xác thịt sao ?» (Gl 3,3) : Họ đã tin Chúa Giê-su, đón nhận Thánh Thần, nay họ lại quay về Luật Do Thái Giáo với phép cắt bì và các thứ nghi thức khác. Các vị nói trên có lẽ cũng khởi sự nhờ ơn Thánh Thần, nhưng khi thấy được nhiều người theo, được ái mộ thì tưởng người ta đi theo mình chứ không phải theo Chúa, bắt đầu thấy mình có chút quyền lực, liền chiếm cộng đoàn làm sở hữu, chạy theo quyền lực và tiền bạc, rồi cũng hưởng những gì quyền lực và tiền bạc vẫn đem cho thế gian. Lời Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô vẫn thiết thực : «Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. 12Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.» (1Cr 10,11-12). Cả chuyện xảy ra trong sách Xuất Hành lẫn chuyện xảy ra ngày nay đều làm bài học cho chúng ta.
Trở về phụng vụ «Thường niên»
Sau 40 ngày sống Mùa Chay để xin ơn và tập hoán cải, rồi 50 ngày Mùa Phục Sinh để mừng ơn cứu độ đã đến trong Đức Giê-su và ơn Thánh Thần để sống đời sống mới, chúng ta trở về «mùa thường niên» để thực hành đời sống mới trong cuộc sống thường ngày.
Mùa Chay năm nay một nhà giảng thuyết đặc biệt đã bám theo rót vào tai, thọc vào mắt mỗi người, dù có tín ngưỡng hay không : «Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro…». Nay trở về đời sống thường ngày, nhưng với nhiều nước, không còn bóng ông «vũ như cẩn», mà vẫn còn bóng «Cô Vi 19» hay chuyển sang «thời hậu Cô Vi 19»… Nhưng dù thời đại nào thì với người tín hữu của Chúa, vẫn là sống cuộc sống thường ngày, vẫn là hành trình về quê hương trên trời theo đường của Chúa.
Nói thì dễ nhưng cuộc sống không dễ. Kinh nghiệm của ông Mô-sê và dân Chúa trên hành trình vào Đất Hứa có thể soi sáng cho chúng ta rất nhiều. Tôi đã đề cập trong bài «Đường Xuất Hành Mới», nhưng tôi xin đọc lại lần nữa cách hành xử và những lần cầu nguyện của ông Mô-sê sau vụ «con bê bằng vàng», nhìn kỹ hơn một vài khía cạnh.
Trở lại bối cảnh vụ «con bê bằng vàng» (Xh 32,1-10))
Sau thời kỳ gian khổ dưới ách nô lệ và cuộc đấu tranh dai dẳng để thoát ách nô lệ, cuối cùng ông Mô-sê đã thành công, đưa đoàn dân vừa được tự do ra khỏi Ai-Cập, đứng trên bờ biển bên kia hát bài ca chiến thắng, rồi hăng hái lên đường.
Cái thường ngày của hoang địa : Buồn tẻ, nóng nực, cái khát khô hông, cái đói cào ruột là những thử thách hàng ngày khiến họ kêu trách ông Mô-sê, người đã đưa họ ra khỏi Ai-cập. Có khi họ đã toan giết ông rồi đặt người khác dẫn đường đi ngược trở lại Ai-cập, với khẩu hiệu hấp dẫn : «Nô lệ bụng no, tự do bụng đói !» Cuối cùng họ cũng tới được điểm hẹn thứ nhất là núi Xi-nai, nơi Thiên Chúa đã đến gọi ông Mô-sê để sai ông quay lại Ai-cập đưa dân đi ra. Tại núi Xi-nai, Thiên Chúa đã hiển linh uy nghi trên đỉnh núi để công bố thiết lập Giao Ước, nhận đám dân hỗn tạp vừa thoát ách nô lệ Ai-cập làm dân của Chúa, để đưa họ vào miền đất phì nhiêu Người đã hứa cho Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp.
Sau khi ông Mô-sê cử hành nghi thức lập Giao Ước, Thiên Chúa gọi ông lên núi để lãnh bia đá ghi khắc Luật Giao Ước, dạy họ biết sống làm dân của Thiên Chúa.
Ông Mô-sê giao trách nhiệm cho A -ha-ron, người anh của ông mà Thiên Chúa đã sai đi với ông, cùng với bảy mươi kỳ mục đã được tuyển chọn để hỗ trợ việc lãnh đạo đoàn dân đông đúc này. Ông an tâm lên núi cùng với người thanh niên Giô-su-ê.
Phút nói thật.
Trong khi ông Mô-sê ngây ngất gặp Thiên Chúa ở trên núi, thì đám dân vừa đón nhận Giao Ước để làm dân của Thiên Chúa và thờ phượng một mình Thiên Chúa đã thay lòng đổi dạ. Hôm nay họ không đói không khát, nên không nhớ thúng bánh nồi thịt, củ hành củ tỏi Ai-cập, nhưng nhớ những ông thần mắt thấy được, tay sờ được, khiêng đi được, đặt chỗ nào tùy ý mình, nhớ những ngày lễ hội tưng bừng, tha hồ ăn uống no say, vui chơi, ca hát múa nhảy thỏa thích. Khác xa với Đấng vô hình uy nghi cao cả đã phán với họ từ trên đỉnh núi cao vời, chỉ làm họ sợ hãi chứ không cho họ tới gần, chỉ truyền cho họ những mệnh lệnh thật nghiêm khắc, cấm đủ thứ mà họ đã quen hưởng bên Ai-cập, khiến đời nô lệ tủi hổ nhọc nhằn được chút vui tươi[1] như những củ hành củ tỏi làm cho bữa ăn thêm hương vị.
Họ kéo nhau đến ông «đại diện lâm thời» A-ha-ron và trình nguyện vọng : “Xin ông đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập.” (Xh 32,1).
Ông anh A-ha-ron bấy lâu này chỉ nói những gì Mô-sê bảo ông nói và làm những gì Mô-sê bảo ông làm. Nay ông được Mô-sê trao toàn quyền giải quyết mọi việc dân đệ đạt, ông vui vẻ đáp lời yêu cầu của dân. «Ông lấy vàng từ tay họ trao cho, đem đúc và dùng dao mà gọt đẽo thành một con bê». Ta bỗng phát hiện ông là thợ kim hoàn và thợ đúc lành nghề ! Đồ trang sức bằng vàng mà dân đã đoạt của người Ai-cập, vào tay ông A-ha-ron biến thành ông thần của người Ai-cập[2]. Ông thành công đến nỗi khi nhìn thấy công trình nghệ thuật của ông thì dân hô hoán lên : «Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ Ai-cập.» Ông A-ha-ron hưởng ứng ngay. «Ông dựng một bàn thờ trước tượng con bê, rồi hô to : «Mai có lễ kính Đức Chúa».
Dân nhiệt liệt hưởng ứng : «Ngay hôm sau, họ dậy sớm, dâng tiến những của lễ toàn thiêu và những lễ vật kỳ an. Dân ngồi xuống ăn uống, rồi đứng lên bày trò vui chơi.»
Lần cầu xin thứ nhất của Mô-sê ở trên núi (Xh 32,11-14)
Trên đỉnh núi, Thiên Chúa báo cho ông Mô-sê biết chuyện gì đang diễn ra dưới chân núi và đưa ra giải pháp : «Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. 10Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn».
Giải pháp hoàn toàn có lợi cho ông Mô-sê. Nhưng ông vội vàng năn nỉ xin Thiên Chúa tha cho dân. Ông viện hai lý do : Thể diện của Thiên Chúa trước mặt dân Ai-cập và lòng trung thành của Thiên Chúa với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Thiên Chúa chấp nhận và tha ngay. Ông Mô-sê ôm hai bia đá xuống núi.
Cách hành xử của Mô-sê ở dưới chân núi (Xh 32,15-29)
Khi đến gần trại, ông thấy con bê và những bọn người đang nhảy múa. Ông Mô-sê nổi cơn thịnh nộ : Ông ném các tấm bia đang cầm trong tay và đập vỡ dưới chân núi. 20Ông lấy con bê họ đã làm, đốt đi, tán nhuyễn ra, rắc lên mặt nước, rồi bắt con cái Ít-ra-en uống.
Ông phá hủy công trình của A-ha-ron. Ông phá luôn cả công trình của Thiên Chúa, tự tay đập vỡ hai bia đá do Thiên Chúa trao và gián tiếp tuyên bố Giao Ước đã vỡ, vì hai bia đá này ghi Luật của Giao Ước. Sau khi thanh tra một vòng quanh trại, ông ra đứng ngoài cổng, tuyên bố thánh chiến, mượn lời Thiên Chúa ra lệnh cho đám Lê-vi nhiệt thành :
Ông Mô-sê đứng ở cổng trại và hô : “Ai thờ ĐỨC CHÚA thì theo tôi !” Tất cả con cái ông Lê-vi đều tập họp bên ông Mô-sê. 27Ông bảo họ : “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này : Mỗi người hãy đeo gươm vào. Hãy đi đi lại lại trong khắp trại, từ cửa này sang cửa khác mà giết : kẻ thì giết anh em, người thì giết bạn hữu, kẻ thì giết người thân cận của mình.”
Ông đã dùng tay đám Lê-vi này tàn sát ba ngàn người trong dân. Sau đó ông nhân danh Thiên Chúa phong chức cho họ : “Hôm nay, anh em được phong chức để phục vụ ĐỨC CHÚA, vì kẻ thì đã hy sinh con mình, kẻ thì đã hy sinh anh em mình, khiến Người chúc phúc cho anh em hôm nay. » (32,25-29)
Lạ thật ! Khó hiểu thật ! Thiên Chúa đã nghe lời ông van xin khi còn trên đỉnh núi và đã tha ngay rồi cơ mà ! Sao xuống tới chân núi ông chẳng quay lại hỏi ý Thiên Chúa, tự ý mượn lời Thiên Chúa để dùng bạo lực với dân, và nhân danh Thiên Chúa tấn phong bạo lực để phục vụ Thiên Chúa ? Hết ý !
Hai anh em hai ngẫu tượng.
Ông Mô-sê đã chất vấn A-ha-ron : “Dân này đã làm gì ông mà ông đưa họ tới chỗ phạm một tội lớn như thế ?”. Ông này đổ tội cho dân và lò lửa :
“Xin ngài chớ bừng bừng nổi giận ; chính ngài biết : Dân này có khuynh hướng xấu. 23Họ nói với tôi : Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập. 24Tôi nói với họ : Ai có vàng ? Họ đã gỡ đồ vàng đeo tai và đưa cho tôi ; tôi ném vào lửa, và đã ra con bê này.
Ngây thơ cụ ! [Bù trớt, nói theo kiểu miền Nam]. Nể mặt anh hai, Mô-sê đành tạm ngưng ở đó. Nhưng ông quay ra trút cơn thịnh nộ của ông lên đầu dân.
Suy cho cùng, ta nhận ra Mô-sê cũng thờ một ông thần khác, không phải là Thiên Chúa, Đấng đã sai ông trở lại Ai-cập cứu dòng dõi Áp-ra-ham.
Ngày ông trốn khỏi Ai-cập là ngày ông đã nông nổi, manh động, đơn phương dùng bạo lực giết một người Ai-cập để bênh vực đồng bào của ông. Hôm nay nhờ Lời Thiên Chúa ông đã giải thoát đồng bào, đưa họ tới núi này để thờ phượng Thiên Chúa như Người đã hứa, khi ông toan thoái thác :
Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa : “Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập ?” 12Người phán : “Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi : Khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này.” (Xh 3,11-12).
Ông đã đưa dân tới đây, và đã cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa khi đón nhận Giao Ước của Thiên Chúa từ trên núi này. Họ đã thành dân của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Người mà cứu họ. Người đã lập Giao Ước nhận họ làm dân của Người và họ đã tôn nhận Người là Thiên Chúa của họ. Sự thành công này hoàn toàn là của Thiên Chúa chứ đâu phải của ông.
Phải chăng vì ông đã được sai đi dùng Lời của Thiên Chúa mà đưa họ ra khỏi ách nô lệ nên ông tưởng mình là ông chủ mới, đã mua đám nô lệ này từ tay Pha-ra-ô ?
Phải chăng vì Thiên Chúa đã dùng ông để công bố và thiết lập Giao Ước (x. Xh 24) mà ông tưởng mình đứng ngang hàng với Thiên Chúa, chứ không phải là một người trong dân, cùng đón nhận Giao Ước để thành dân của Thiên Chúa ?
Thiên Chúa mà ông dùng bạo lực và tấn phong bạo lực để phục vụ, không phải là Thiên Chúa đã phán với ông, và đã không chấp tội dân bao nhiêu lần, từ khi họ phản kháng ông ngay lúc ông còn đi vật lộn với Pha-ra-ô để giải thoát họ, cũng như hôm qua, hôm kia, khi ông van xin cho họ ngay trên đỉnh núi[3].
Thiên Chúa mà ông đang mượn danh để dùng bạo lực trừng phạt dân, và tấn phong bạo lực để vĩnh viễn phục vụ, là một « ông thần » do ông nặn ra trong đầu và trong tim ông.
Ông không dám mạnh tay với A-ha-ron là phải. Ông có hơn gì đâu.
Anh của ông đúc con bê bằng vàng, lập bàn thờ và công bố lễ kính Đức Chúa. Còn bản thân ông thì nổi cơn thịnh nộ, đập vỡ bia đá ghi luật Giao Ước của Thiên Chúa, mượn lời «thiên chúa của ông» để dùng bạo lực với dân Ít-ra-en, dù Thiên Chúa của Ít-ra-en đã tha cho họ rồi. Ông lại còn tấn phong bạo lực để phục vụ « thiên chúa của ông» : «thiên chúa của ông» là «thiên chúa của bạo lực và không tha thứ».
Hai anh em, mỗi người nặn ra một ngẫu tượng : ngẫu tượng của A-ha-ron đúc theo mẫu Ai-cập, bằng vàng của Ai-cập. Ngẫu tượng của Mô-sê nặn trong đầu và trong tim, là ông thần của bạo lực, khủng bố.
Lần cầu xin thứ hai của Mô-sê (Xh 32,30-35)
Thiên Chúa đã dùng và muốn tiếp tục dùng Mô-sê, nên kiên nhẫn giáo hóa ông từng bước cách nhẹ nhàng để ông thật sự trở nên người của Thiên Chúa.
Đêm. Gió mát sa mạc đã làm cho ông Mô-sê lắng xuống.
Bình minh. Cả trại chìm trong thinh lặng của sa mạc. Trước mặt đám dân đang kinh hoàng ngơ ngác vì cuộc khủng bố chết chóc hôm qua, mà Mô-sê tuyên bố là mình hành động theo lời của Thiên Chúa, ông nói như an ủi : Ngày hôm sau, ông Mô-sê nói với dân : “Anh em đã phạm một tội lớn, nhưng giờ đây tôi sắp lên gặp ĐỨC CHÚA ; may ra tôi sẽ xin được Người xá tội cho anh em.” (32,30)
Ô hay, sao lại thế nhỉ ? Mới hai ngày trước, ngay trên đỉnh núi ông đã xin và Thiên Chúa đã tha rồi cơ mà ? Lòng nhiệt thành hay cơn giận đã làm ông quên hết rồi, chỉ còn nhớ đến tội của dân thôi ? Sao lại nói may ra ? Hôm trước đang lúc dầu sôi lửa bỏng, ông xin thì Thiên Chúa cũng đâu chờ ông phải xin lần thứ hai, Người đã tha liền mà ! Ông chưa tha nên ông tưởng Thiên Chúa cũng giống như ông. Ông chưa chắc mình có thể tha, nên ông cũng chưa chắc Thiên Chúa có thể tha, « may ra » thôi.
Ông Mô-sê trở lại với ĐỨC CHÚA và thưa: “Than ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! 32Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết.
Đọc kỹ mấy câu này trong bản tiếng Hip-ri sẽ phát hiện vài điều lý thú. Trước hết “ông Mô-sê trở lại với Đức Chúa”. Hôm ông ôm hai bia đá đi xuống núi, ông đã “quay mặt và đi xuống” (32,15 dịch sát), tức là “quay lưng” lại Thiên Chúa, hôm nay ông mới trở lại với Đức Chúa. Khi ông quay lưng để Thiên Chúa lại trên núi mà đi xuống, ông đã không hề ngoái cổ lại. Tới chân núi thì ông hành xử theo ý ông, theo cơn giận của ông, như thể không có Thiên Chúa mà ông vừa van xin trên đỉnh núi ; thậm chí ông còn tạo ra «lời Thiên Chúa» khi sai đám Lê-vi nhiệt thành đi tàn sát dân của Thiên Chúa. Hôm nay ông mới “trở lại với Đức Chúa”. “Quay mặt” và “trở lại” đã trở thành hai kiểu nói quen thuộc về tội và hoán cải : “quay mặt đi” hay “quay lưng” là bỏ Thiên Chúa. Quay trở lại tức là hoán cải, “trở lại với Thiên Chúa”. Từ lúc quay mặt và đi xuống, ông đã bỏ Thiên Chúa lại trên núi để theo “ông thần lạ” nào đó trong lòng trong trí ông.
Bây giờ ông mới kể cho Thiên Chúa chuyện tầy trời mà dân này đã làm. Chính Thiên Chúa đã báo cho ông biết khi còn trên đỉnh núi, đâu cần ông báo cho Người biết. Sao lại ông lại nói dân này ? Dân của Thiên Chúa đấy ông ạ.
Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Giờ đây ông mới xin! Trễ rồi! Thiên Chúa mà đã chấp tội từ hai, ba ngày nay thì còn đâu cho ông xin! “Nếu Chúa chấp tội thì ai sống nổi!” (x. Tv 129/130,3). Ông quên là ông đã xin ngay lúc Thiên Chúa báo cho ông biết và Người đã tha ngay rồi sao?
Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết! Ông tốt bụng quá nhỉ. Chúng tôi hiểu là ông xin thế mạng cho dân này đấy. Ông là ai mà xin đem mạng thế cho cả dân của Thiên Chúa. Hay ông nhớ lại lời Người bảo sẽ tiêu diệt dân này và cho ông thay thế họ. Ông làm như thiệt. Lúc đó ông đã phản ứng rất tốt. Nhưng bây giờ ông tỏ ra vẫn chưa biết mình là ai, vẫn còn sống với ảo ảnh của chính mình đấy. Ông quên là cái mạng của ông đâu còn là của ông, từ khi ông đã chấp nhận đi thi hành sứ mạng do Thiên Chúa trao thì cái mạng của ông không còn là của ông, nhưng là của Đấng đã sai ông đi và dùng để thi hành sứ mạng chứ không được dùng vào việc gì khác.
ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Kẻ nào phạm tội làm mất lòng Ta, Ta sẽ xoá tên nó khỏi cuốn sách của Ta. 34Bây giờ, ngươi hãy đi, đưa dân tới nơi Ta đã chỉ cho ngươi. Này thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi; nhưng đến ngày Ta trừng phạt, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội đã phạm.”
Câu trả lời của Thiên Chúa mới thật thâm thúy. Việc nhập sổ hay xóa sổ là việc của Ta, không phải việc của ngươi. Ngươi là tôi tớ thì đi lo việc Ta đã trao cho ngươi, đưa dân của Ta đi lên. Đừng quên rằng Ta dùng ngươi là vì Ta muốn thôi chứ chẳng phải do công trạng gì của ngươi, và không có ngươi thì có người khác, Ta búng ngón tay là có ngay. Không có ngươi thì sứ thần của Ta vẫn đưa dân đi, được Ta dùng là phúc cho ngươi đấy chứ chẳng phải là một công trạng gì đâu[4]. Ông Mô-sê đã quên mình là người tôi tớ, tự ý làm ông chủ ra tay trừng phạt dân của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn nhẹ nhàng nhắc khéo ông: Việc thưởng phạt là của Ta đấy nhé, Ta không trao cho ngươi đâu, ngươi đừng có tự quyền nữa nhé. Ta không nôn nóng như ngươi đâu, việc gì Ta làm cũng có thời có lúc. Ta là Đấng hằng sống, vĩnh cửu mà, đâu có sợ trễ hay không kịp.
Lần cầu xin thứ ba của ông Mô-sê (Xh 33,12-23)
Từ khi tới núi Xi-nai (x. Xh 19), mỗi lần muốn thưa chuyện hay nhận lệnh của Thiên Chúa ông phải lên núi. Sau lần “trở lại với Đức Chúa” này thì ông Mô-sê dựng Lều Hội Ngộ bên ngoài trại để ông thường xuyên “gặp Thiên Chúa” và người nào trong dân cũng có thể tới “thỉnh ý Đức Chúa”. Thiên Chúa tỏ ra chấp nhận sáng kiến mới này, từ lúc xuất hành tới nay chưa thấy :
Mỗi khi ông Mô-sê vào trong Lều, thì cột mây đáp xuống, đứng ở cửa Lều, và ĐỨC CHÚA đàm đạo với ông Mô-sê. 10Khi thấy cột mây đứng ở cửa Lều, toàn dân đứng dậy; và ai nấy phủ phục ở cửa lều mình.
Ngay hôm khai trương Lều Hội Ngộ và được Thiên Chúa vui lòng ngự xuống cho ông gặp, ông Mô-sê tiếp tục buổi cầu nguyện hôm trước.
Ông Mô-sê thưa với ĐỨC CHÚA: “Xin Ngài coi, chính Ngài đã phán với con: ‘Hãy đưa dân ấy lên, vậy mà Ngài lại không cho con biết Ngài sẽ cử ai đi với con. Tuy nhiên chính Ngài đã phán : Ta biết đích danh ngươi, và hơn nữa ngươi đã được nghĩa với Ta.’ 13Vậy bây giờ, nếu quả thật con đã được nghĩa với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài, để con biết Ngài, và được nghĩa với Ngài. Xin cũng coi dân tộc này là dân của Ngài.”
Trước hết ông nhắc lại câu trả lời của Thiên Chúa khi ông cầu xin lần trước, Thiên Chúa sai ông tiếp tục đưa dân đi lên. Ông nhắc Thiên Chúa : “Ngài chưa cho con biết Ngài sẽ cử ai đi với con ?”. Khi Thiên Chúa đến gặp ông lần đầu để sai ông đi nói với Pha-ra-ô và nói với dân, thì ông thoái thác, viện lẽ ông cà lăm. Thiên Chúa sai anh của ông là A-ha-ron cùng đi làm «phát ngôn». Ông chấp nhận. Nay Thiên Chúa tiếp tục sai ông đi thì ông nhắc Thiên Chúa rằng chưa cho ông biết ai sẽ cùng đi với ông. Ông đang nhắc khéo đấy !
Chuyện bây giờ mới nói là thế ! Hôm trước ông chất vấn anh hai về chuyện « con bê bằng vàng », thì anh hai làm mặt « ngây thơ cụ », nhưng ông đã ngưng ở đó. Hôm nay ông mới trở lại câu chuyện ấy khi đàm đạo với Thiên Chúa. Không nhắc tên người cùng đi bấy lâu, chỉ kín đáo nhắc Thiên Chúa : «Ngài lại không cho con biết…». Điều không nói ra đã được nói : A-ha-ron, người cùng đi với con từ đầu tới nay, có còn đủ uy tín để cùng đi với con trên đoạn đường mới này không ? Chẳng lẽ Ngài tiếp tục bắt con cùng đi với ông anh ‘ngây thơ cụ’ của con sao ?
Bây giờ ta mới được biết thêm lời này : «Chính Ngài đã phán : Ta biết đích danh ngươi, và hơn nữa ngươi đã được nghĩa với Ta.»
Ta đã biết đích danh ngươi nghĩa là Ta đã gọi, đã chọn ngươi đích danh và Ta biết rõ ngươi là ai[5]. Chúa biết rõ con thì Chúa biết con cần ai cùng đi với con, anh hai con đã tỏ ra không đủ khả năng cùng đi với con rồi.
Khi cầu xin ơn tha thứ cho dân thì ông đưa ra hai lý do : Thể diện của Thiên Chúa trước mặt dân Ai-cập và lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ các tổ phụ. Bây giờ cầu xin cho chính mình thì ông vin vào lời Chúa nói “ngươi đã được nghĩa với Ta » để xin ơn tiếp theo gồm ba vế : Tỏ cho con biết đường lối của Ngài / để con biết Ngài / và được nghĩa với Ngài. Lần đầu ta nghe ông xin ơn này.
Lời cầu xin này lại nói ra một điều ông không nói : Qua lời Thiên Chúa phán với ông trong buổi cầu nguyện lần trước, ông đã nhận ra mình chưa biết đường lối của Thiên Chúa. Bây giờ Thiên Chúa tiếp tục sai ông dẫn đưa dân Chúa đi thì ông xin được biết đường lối của Chúa. Đường đi trong hoang mạc này thì 40 năm chăn chiên đã dạy cho ông. Đường lối của Thiên Chúa thì chỉ có Thiên Chúa có thể tỏ cho ông. Ông phải đưa dân của Chúa đi lên tới Đất Hứa, nên biết đường đi trong hoang địa chưa đủ, vì dân sẽ chỉ vào được Đất Hứa nếu họ sống theo đường lối của Thiên Chúa. Sứ mạng của ông bây giờ đã rõ, vì chính ông đã được Thiên Chúa sai công bố Giao Ước và cử hành lễ thiết lập Giao Ước (x. Xh 19,3-8 ; 24,1-8). Nhưng hai bia đá Thiên Chúa ghi Luật Giao Ước thì ông cũng chưa đọc mà đã đập vỡ rồi !
Lần đầu Thiên Chúa đến gặp ông và sai ông đi, ông đã xin được biết DANH của Thiên Chúa để trả lời khi dân hỏi, và Thiên Chúa cho ông một DANH trừu tượng và một DANH cụ thể. Ông cũng chỉ dùng vào mục đích đó thôi. Thế là ông chẳng biết gì hơn, ông mới chỉ biết « danh » mà chưa biết « tánh » của Thiên Chúa ! Lời Thiên Chúa phán khi ông cầu xin lần trước đã ngầm vạch cho ông thấy điều đó. Thiên Chúa biết đích danh ông và đã chọn ông để sai đi với con người thật, với mọi giới hạn của ông, cả tính nóng nảy và ưa bạo lực, cả cái bụng hẹp hòi không chịu tha thứ nữa.
«Để con biết Ngài». Đúng rồi, phải biết cả «danh» và «tánh» mới thật là biết.
«Và được nghĩa với Ngài ». Nghe đến đây thì ta thấy có gì ngược chiều rồi! Chính Thiên Chúa đã phán «Ngươi đã được nghĩa với Ta» và ông đã dựa vào đó để xin. Ông được nghĩa với Thiên Chúa trước khi ông làm gì cho Thiên Chúa. Vì được nghĩa với Thiên Chúa mà ông được biết đường lối của Thiên Chúa và được biết Thiên Chúa, chứ không phải vì ông biết đường lối của Thiên Chúa và biết Thiên Chúa mà ông được nghĩa với Thiên Chúa.
«Xin cũng coi dân tộc này là dân của Ngài”. Thừa rồi ! Thiên Chúa có ngưng coi họ là dân của Người bao giờ đâu ! Chính vì Thiên Chúa vẫn coi họ là dân của Người nên Người mới sai ông tiếp tục đi với họ đấy chứ ! Ông mới là người quên rằng họ là dân của Thiên Chúa và xử với họ như thể họ là dân của ông, để ông tự ý dùng bạo lực. Chính ông đập vỡ hai bia Chứng Ước Thiên Chúa trao cho ông đem xuống cho họ. Nếu Thiên Chúa không còn coi họ là dân của Người thì Người đã giữ lại Bia Chứng Ước ở trên núi và cho ông thất nghiệp luôn rồi, đâu có cơ hội cho ông đập vỡ công trình của Thiên Chúa.
«Đức Chúa phán : «Đích thân Ta sẽ đi và sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi ». Đáp lại lời cầu xin đầu tiên của Mô-sê, xin cho biết ai sẽ cùng đi với ông, Thiên Chúa bảo « Đích thân Ta sẽ đi». Câu tiếp theo nghe rợn rợn : «Sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi » là gì ? Hôm nay Mô-sê đâu có xin cho được nghỉ ngơi ? Thử bóp trán nhớ lại thì thấy sách Dân số, chương 11 có kể rằng khi ông Mô-sê kẹt «giữa hai lằn đạn», một bên là dân tụm năm tụm ba khóc lóc đòi ăn, một bên là Thiên Chúa bừng bừng nổi giận, ông đã xin với Thiên Chúa :
Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. 15Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn – ấy là nếu con đẹp lòng Ngài ! Đừng để con thấy mình phải khổ nữa !” (11,14-15)
Sách Đệ Nhị Luật sẽ cho thấy Thiên Chúa thực hiện lời hứa này và cho ông Mô-sê được nghỉ ngơi trên núi Nê-bô (34,1-12), khỏi vất vả đưa dân qua sông Gio-đan và dùng chiến tranh chiếm lãnh Đất Hứa.
Xem ra ông Mô-sê thích thú với lời hứa thứ nhất, ông liền phụ họa :
Ông Mô-sê thưa với Người : “Nếu Ngài không đích thân đi, xin Ngài đừng đưa chúng con lên khỏi đây. 16Nhưng làm thế nào [cho người ta] biết được là con và dân của Ngài được nghĩa với Ngài ? Há chẳng phải vì có Ngài đi với chúng con sao ? Như thế, con và dân của Ngài mới khác với mọi dân trên mặt đất.”
Thiên Chúa như âu yếm trả lời bằng một tiếng «Ừ !» thiệt to, và nhắc lại lời đã làm Mô-sê phấn chấn, như để kết thúc buổi tiếp kiến : “Ngay cả điều ngươi vừa nói đó, Ta cũng sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với Ta, và Ta biết đích danh ngươi ».
«Được lời như cởi tấm lòng», thấy vì đã được nghĩa với Thiên Chúa thì xin gì cũng được, ông Mô-sê được nê xin thêm một điều : “Xin Ngài thương cho con được thấy vinh quang của Ngài.” Thế ra ông xin Thiên Chúa trả lời vắn gọn cho lời cầu xin chính của ông là «được biết đường lối của Ngài để con biết Ngài» bằng cách cho thấy mặt luôn.
19Người phán : “Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi, và sẽ xưng danh Ta là ĐỨC CHÚA trước mặt ngươi. Ta thương ai thì thương, xót ai thì xót.” 20Người phán : “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.” 21ĐỨC CHÚA còn phán : “Đây là chỗ gần Ta ; ngươi sẽ đứng trên tảng đá. 22Khi vinh quang của Ta đi qua, Ta sẽ đặt ngươi vào trong hốc đá, và lấy bàn tay che ngươi cho đến khi Ta đã đi qua. 23Rồi Ta sẽ rút tay lại, và ngươi sẽ xem thấy lưng Ta, còn tôn nhan Ta thì không được thấy.”
Người viết sách không bận tâm giải thích tại sao đang ở trong Lều mà lại có hốc đá. Điều quan trọng là một chuỗi lời cầu xin của Mô-sê và trả lời của Thiên Chúa, liên tục với nhau như trong cùng một buổi cầu nguyện[6] . Xin được thấy mặt Thiên Chúa là chạm trần nhà rồi, không được. Nhưng Thiên Chúa cho ông biết đường lối của Thiên Chúa là tình yêu và lòng thương xót vô điều kiện : «Ta thương ai thì thương, xót ai thì xót». Muốn biết đường lối của Thiên Chúa thì phải nhìn từ sau lưng để biết đường đi nước bước[7] của Người.
Thiên Chúa giáo hóa Mô-sê cách quyết liệt trên núi (Xh 34)
Những «lỗ hổng» hay “lấn cấn” chúng ta đã nhận ra khi đọc kỹ các lời cầu xin và cách hành xử của Mô-sê, Thiên Chúa sẽ chỉnh đốn trong một cuộc giáo huấn kéo dài 40 ngày trên đỉnh núi, để hàn gắn lại những đổ vỡ do Mô-sê gây ra, và biến đổi chính con người ông Mô-sê cho hợp với sứ mạng phục vụ Dân của Thiên Chúa, trong giai đoạn mới của hành trình về Đất Hứa sau khi đã nhận Giao Ước ở núi Xi-nai.
Lần này Thiên Chúa chủ động. Để chuẩn bị, Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê :
“Ngươi hãy đẽo hai bia đá giống như hai bia trước. Và Ta sẽ ghi lại trên đó những lời đã ghi trên các bia trước mà ngươi đã đập vỡ. 2Ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng cho sáng ngày mai. Ngay từ sáng, ngươi hãy lên núi Xi-nai và đứng chờ Ta ở đó, trên đỉnh núi. 30Không ai được lên với ngươi ; cũng không ai được xuất hiện trên khắp vùng núi ; ngay cả bò bê hay dê cừu cũng không được ăn cỏ trên sườn núi đó.”
Một cuộc cấm phòng nghiêm ngặt. Bắt đầu lại câu chuyện từ ngày Mô-sê ôm hai bia đá do Thiên Chúa tự tay làm và tự tay viết mà ban cho dân, «quay mặt đi xuống» rồi tự tay đập vỡ hai bia đá kia dưới chân núi. Mô-sê phải tự tay đẽo hai bia đá giống như hai bia mà ông đã tự tay đập vỡ. Rồi ông phải ôm hai bia đá đi một mình lên núi– không có Giô-su-ê theo hầu như lần trước, cũng không có dân đứng dưới chân núi. Lần trước Thiên Chúa ngự sẵn trên đó, gọi và chờ ông lên, lần này ông phải lên đó và đứng chờ Thiên Chúa.
Thiên Chúa uy nghi xuất hiện. Một cuộc triều yết long trọng dành riêng cho Mô-sê. Thiên Chúa dành cho Mô-sê một cuộc hiển linh dài hơn cuộc hiển linh kết thúc buổi cầu xin thứ ba của ông (Xh 33, 18-23).
ĐỨC CHÚA ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là ĐỨC CHÚA. 6ĐỨC CHÚA đi qua trước mặt ông và xướng : “ĐỨC CHÚA ! ĐỨC CHÚA ! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, 7giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông.”
Lần này Mô-sê được đứng nhìn Thiên Chúa đi qua và nghe xướng «danh tánh» đầy đủ của Thiên Chúa. Danh tánh quảng diễn dài và đầy đủ hơn. Một đàng là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, kiên nhẫn chịu đựng, đàng khác không có xí xóa ba phải, tội vẫn là tội, nếu phạt thì phải phạt tới ba bốn đời cơ, một đời chưa đủ. Hoàn toàn ngược với những gì Mô-sê đã tự nghĩ về Thiên Chúa và đường lối của Thiên Chúa.
Lời cầu xin chính của Mô-sê trong lần cầu xin tại Lều Hội Ngộ, xin biết đường lối của Thiên Chúa để biết Thiên Chúa, hôm nay Người đáp: Đường lối của Ta là thế, và Ta là thế đấy.
Lập tức Mô-sê phủ phục và lặp lại những lời cầu xin đã quen từ khi xảy ra vụ con bê bằng vàng, vin vào chỗ « được nghĩa với Thiên Chúa » như lần trước. Những điều ông xin toàn là những điều Thiên Chúa chẳng cần ông phải xin, mà chỉ bộc lộ rằng tâm trí ông vẫn chưa thay đổi. Coi như Thiên Chúa đã cho ông đề tài để cấm phòng rồi, và ông cũng bộc lộ rõ là ông cần được biến đổi trong cuộc cấm phòng này, để có thể tiếp tục sứ mạng.
Thiên Chúa để cho ông Mô-sê nói, rồi không trả lời ông, Thiên Chúa tiếp tục cho đề tài. Ông đẽo bia đá giống hai bia của Thiên Chúa trao lần trước và ôm lên đây rồi. Chúa đọc lại nội dung Luật Giao ước đã ghi trên bia, Mô-sê chưa kịp đọc đã tự tay đập vỡ.
Kết luận : ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê : “Hãy ghi chép những lời này, vì dựa trên chính những lời này mà Ta đã lập giao ước với ngươi và với Ít-ra-en.”
Ta nên đọc kỹ câu kết luận này để thấy ý nghĩa của ba vế
1/ Hãy ghi chép những lời này. Khi truyền cho Mô-sê đẽo hai bia đá thì Thiên Chúa bảo «Ta sẽ ghi lại trên đó những lời đã ghi trên các bia trước mà ngươi đã đập vỡ». Bây giờ Thiên Chúa đọc lại nội dung rồi bảo Mô-sê ghi. Vẫn là Thiên Chúa ghi, nhưng dùng Mô-sê làm thư ký. Ta sẽ trở lại điểm này.
2/ Dựa trên chính những lời này mà Ta đã lập Giao Ước. Những lời Thiên Chúa vừa nói lại cho Mô-sê nghe là nội dung Luật Giao Ước đã ban hôm trước, khi toàn dân tụ họp dưới chân núi đấy, không phải một Giao Ước khác đâu. Hôm ấy dân sợ nghe tiếng uy nghi như sấm sét của Thiên Chúa nên xin ông Mô-sê nói với họ bằng tiếng loài người, Thiên Chúa cũng chiều ý dân. Ngay lúc đó, Thiên Chúa đã để cho «dân đứng xa xa, còn Mô-sê thì tiến lại gần đám mây đen, nơi Thiên Chúa đang ngự và Thiên Chúa phán với ông Mô-sê : Ngươi sẽ bảo con cái Ít-ra-en như thế này… » (Xh 20,21-22). Sau đó, để ghi nhớ, Thiên Chúa tự tay ghi Luật Giao Ước trên hai bia đá, để ông Mô-sê đem xuống đọc cho dân, nhưng ông đã đập vỡ.
3/ «Ta đã lập Giao Ước với ngươi và với Ít-ra-en»: Thiên Chúa nhẹ nhàng sửa dạy những lấn cấn của Mô-sê khi hành xử, không biết mình đứng trong / đứng ngoài / hay đứng trên. Nay Thiên Chúa nói rõ : Giao Ước với ngươi và với Ít-ra-en. Rõ rồi nhé, Mô-sê đứng trong, là một trong những người được hưởng Giao Ước, và cũng phải giữ luật của Giao Ước.
Phần hướng dẫn, Thiên Chúa cho đề tài và phương pháp cấm phòng rồi đấy. Ông xin ơn biết đường lối của Thiên Chúa để biết Thiên Chúa thì trong cuộc hiển linh dành riêng cho ông hôm nay Chúa đã cho ông thấy và nghe. Đường lối của Thiên Chúa thì nghe không đủ, phải đi theo mới biết. Thiên Chúa đã vạch ra trong Luật Giao Ước để dân Chúa, trong đó có ông, biết mà đi theo. Ông là người có trách nhiệm dẫn đầu thì càng phải lo học biết và đi cho đúng để dân theo sau[8], chứ không thể làm cảnh sát giao thông, đứng một chỗ mà chỉ đường: « Đường này đấy, anh chị em đi đi ! »
Phương pháp cấm phòng là ông Mô-sê phải tự tay khắc từng chữ trên bia đá, để có thời gian và thinh lặng cho lời Thiên Chúa thấm vào lòng, ghi vào trí ông, và nhất là để « Thần Khí của Thiên Chúa » thấm vào cả con người của ông, cho ông được có cùng cảm nghĩ như Thiên Chúa[9], biết phản ứng như Thiên Chúa, hành xử như Thiên Chúa để nên giống Thiên Chúa; nếu nên giống Thiên Chúa thì sẽ biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa dựng nên chúng ta giống như hình ảnh của Người[10]. Thần Khí Thiên Chúa đã «đậu trên ông»[11] để ông dẫn dắt đoàn dân của Thiên Chúa, nhưng Thần Khí chưa thấm vào ông nên cách cảm nghĩ và hành xử của ông không phải của Thiên Chúa. Trong vụ «con bê bằng vàng» ông đã xử sự như thể ông là hiện thân của Thiên Chúa. Bây giờ ông phải học biết rằng Thiên Chúa hoàn toàn khác[12]. Ông phải nên giống Thiên Chúa chứ đừng uốn Thiên Chúa theo khuôn của ông như ông đã làm bấy nay.
Kết quả cuộc cấm phòng trên núi với Thiên Chúa
Ông ở đó với ĐỨC CHÚA bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn không uống, và ông viết trên những tấm bia các điều khoản của giao ước, tức là Thập Điều. 29Ông Mô-sê từ trên núi Xi-nai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Mô-sê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa. 30Khi ông A-ha-ron và toàn thể con cái con Ít-ra-en thấy ông Mô-sê, thì này đây da mặt ông sáng chói, nên họ sợ không dám lại gần ông. 31Ông Mô-sê gọi họ : ông A-ha-ron và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông nói chuyện với họ. Sau đó, toàn thể con cái Ít-ra-en lại gần ông, và ông truyền cho họ tất cả những điều ĐỨC CHÚA đã phán với ông trên núi Xi-nai.
Sự biến đổi bên trong tỏa ra bên ngoài, cả trên da mặt ông. Ông xuất hiện như một con người mới trước mặt «A-ha-ron và toàn thể con cái Ít-ra-en ». Họ không dám tới gần cho đến khi ông gọi họ để họ nhận ra chính ông đã một mình lên núi và trở xuống với họ đây. Bộ mặt ông hoàn toàn khác với bộ mặt khi ông xuống núi lần trước. Hôm nay ông ôm hai bia đá có ghi khắc Luật Giao Ước xuống cho họ, và ông có thể dùng lời nói mà «truyền cho họ tất cả những điều ĐỨC CHÚA đã phán với ông trên núi Xi-nai.»
Khi dẫn vợ con của Mô-sê tới cho ông[13], nhạc phụ đã dạy: “Anh hãy đứng ra thay mặt dân trước nhan Thiên Chúa: Chính anh sẽ trình các việc lên Thiên Chúa, 20sẽ dạy cho họ các thánh chỉ, các lề luật, và cho họ biết đường lối phải đi và cách phải xử sự.”(18,19-20).
Bây giờ Mô-sê mới thi hành đúng lời bố vợ đã dạy:
Nói với họ xong, ông lấy khăn che mặt đi. 34Khi vào trước nhan ĐỨC CHÚA để đàm đạo với Người, thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra ; ông trở ra và nói lại với con cái Ít-ra-en những mệnh lệnh ông đã nhận được. 35Con cái Ít-ra-en nhìn mặt ông Mô-sê thấy da mặt ông sáng chói ; ông Mô-sê lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa. (34,33-35).
Từ nay Mô-sê che mặt lại, chỉ mở khăn khi vào chầu Thiên Chúa để «trình các việc lên Thiên Chúa» và trở ra nói cho dân những mệnh lệnh ông đã nhận được, rồi lại che mặt. Từ nay ông chỉ còn là con thoi giữa Thiên Chúa và dân của Thiên Chúa.
Ta thầm nghĩ, phải chi ngay lần xuống núi trước ông đã là như thế thì đâu nên nỗi… Trễ còn hơn không bao giờ. Thánh Phao-lô áp dụng chuyện Mô-sê cho chúng ta: “Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương”[14]. Chúa Giê-su dạy trong bài giảng trên núi: «Anh em là ánh sáng cho trần gian»[15]