Lược Sử Tổng Giáo Phận Huế
Nhập đề:
Huế là một vùng đất cổ. Đầu thế kỷ XIV, vùng đất này hòa nhập vào Ðại Việt khi năm 1306, công chúa Huyền Trân, con vua Trần Nhân Tông, làm vợ vua Chiêm là Chế Mân, đổi lấy hai châu Ô và châu Lý (trong đó có Huế tương lai) làm sính lễ.
Năm 1307, vua Trần Anh Tông tiếp quản vùng đất mới và đổi tên là châu Thuận và châu Hóa. Việc kết hợp hai châu này làm một và cải tên là phủ Thuận Hóa được thực hiện dưới thời nhà Minh (Tàu đô hộ).
Đời nhà Hậu Lê, vào giữa thế kỷ XV, Thuận Hóa là một đơn vị hành chính cấp đạo, sau đổi làm xứ, rồi đến đầu thế kỷ XVI, đổi làm trấn. Dưới thời các chúa Nguyễn (thế kỷ 16-18), Thuận Hóa trong giai đoạn đầu là trấn, đến năm 1744 Võ vương Nguyễn Phúc Khoát đổi làm dinh. Đây là vùng đất trải dài từ phía nam Đèo Ngang cho tới đèo Hải Vân.
Giáo phận Huế (vốn bao gồm vùng đất từ bờ nam sông Gianh đến bắc đèo Hải Vân), ban đầu thuộc Giáo phận Ðàng Trong (1659-1844) rồi thuộc Giáo phận Đông Đàng Trong (1844-1850). Ngày 27-8-1850 Ðức Giáo hoàng Piô IX ký sắc chỉ Postulat Apostolici thành lập Giáo phận Huế với tên gọi là Giáo phận Bắc Ðàng Trong.
Năm 1924 được đổi tên là Giáo phận Huế và được nâng lên thành Tổng Giáo phận khi Tòa thánh thiết lập hàng Giáo phẩm Việt Nam (1960). Giáo phận Huế đã trải qua những giai đoạn chính sau đây:
1. Nửa thế kỷ khai phá của dòng Tên (1615-1665)
Công cuộc truyền giáo thật sự bắt đầu với các linh mục dòng Tên. Thời kỳ này, có một tỉnh Dòng Tên đặt tại Macao (Áo Môn), một nhượng địa bé nhỏ của Bồ Ðào Nha trong vùng đất phía nam Trung Quốc. Nhiều Thừa sai người Bồ đã từ đó đến Việt Nam truyền giáo.
Cha Francesco Buzomi được coi là người đầu tiên đến xứ Ðàng Trong, ngài có mặt tại Hội An vào năm 1615 và giảng đạo tại Quảng Ngãi, Nước Mặn (Quy Nhơn).
Trong khoảng thời gian từ 1615 đến 1665, có 30 linh mục và 5 trợ sĩ Dòng Tên hoạt động ở Ðàng Trong, trong số này có cha Francisco de Pina và cha Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ).
Năm 1625, cha Pina (rất thông thạo tiếng Việt) đến Thuận Hóa rửa tội cho bà Minh Ðức Vương Thái Phi, vợ của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Bà được xem như tín hữu đầu tiên của Giáo phận Huế.
Cha Đắc Lộ, người được xem là có công lớn trong việc sáng lập chữ quốc ngữ với những tác phẩm như: Phép Giảng Tám Ngày và Từ Ðiển Việt-Bồ-La (in tại Roma năm 1651), năm 1640 đã ra Kim Long, nơi có phủ chúa, ngụ tại nhà bà Minh Đức và rửa tội cho ông Văn Nết, quản gia của bà, sau trở thành vị tử đạo.
Công cuộc truyền giáo của các Thừa sai Dòng Tên người Bồ ở Ðàng Trong đã có những kết quả rất rõ rệt với khoảng 20.000 tín hữu và tổ chức thầy giảng, câu trùm, biện họ…
Năm 1622, Thánh bộ Truyền bá Đức tin được Đức Grêgôriô XV thành lập. Cùng lúc ấy, cha Đắc Lộ, bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam năm 1645, đã trở về Âu Châu, vận động cho có thêm Thừa sai sang vùng Đông Nam Á, nhất là tới Rôma đề xuất việc thiết lập cơ cấu Giáo phận với hàng Giám mục do Tòa thánh bổ nhiệm.
Năm 1659, với Đoản sắc “Super cathedram principis”, ĐGH Alêxandrô VII (1655-1667) quyết định tổ chức ở vùng truyền giáo Việt Nam hai Giáo phận và giao cho hai vị Thừa sai người Pháp: Đức Giám Mục François Pallu (1626-1658-1684) làm Đại diện Tông tòa ở Đàng Ngoài, gồm khu vực chúa Trịnh cùng 4 tỉnh nam Trung Quốc, và Đức Giám Mục Lambert de la Motte (1624-1658-1679) làm Đại diện Tông tòa ở Đàng Trong, gồm khu vực chúa Nguyễn cùng Cao Miên và vương quốc Thái. Ranh giới giữa 2 Giáo phận là sông Gianh, xét vì lúc ấy, hai thế lực Trịnh và Nguyễn đang đối đầu nhau ở nơi này.
Cũng nên biết, François de Pallu và Lambert de la Motte khi còn là linh mục, đã thành lập năm 1653 một tu hội giáo sĩ mang tên Hội Thừa sai Hải ngoại Paris (Société des Missions Étrangères de Paris, gọi tắt là MEP). Hội nhắm mục đích gởi người đi truyền giáo tại những nước ngoại đạo và đặc biệt bên châu Á. Chính từ hội này, từ năm 1850 đến 1975, 101 Thừa sai đã đến phục vụ Giáo phận Huế.
2. Huế thuộc Giáo phận Ðàng Trong (1659-1844)
Sau 3 năm thành lập Giáo phận, ngày 22-8-1662, Đức cha Lambert de la Motte tới Thái Lan và đặt tòa Giám mục tại Ayuthia, vì chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đang bắt bớ người Công Giáo ở Đàng Trong (với hai sắc chỉ năm 1663 và 1665). Cùng với Đức cha François Pallu và các Thừa sai, ngài họp Công đồng Ayuthia (1664) để hoạch định đường hướng mục vụ, và lập chủng viện Thánh Giuse ở đây (1665) để đào tạo các linh mục Thái-Hoa-Việt.
Sau khi Đức cha Lambert de la Motte qua đời tại Thái Lan, cha Guillaume Mahot (MEP) được đặt làm chủ chăn Giáo phận (1681). Do làm việc cật lực để tổ chức quản trị Giáo phận, ngài qua đời sớm vào ngày 15-6-1684.
Kế vị là Thừa sai Joseph Duchesne (1684), giáo sư chủng viện Thánh Giuse ở Thái. Tiếc rằng ngài chưa nhận được sắc phong của Tòa thánh thì đã mất sau Đức cha Mahot 2 ngày. Giám mục Louis Laneau đang phụ trách giáo đoàn Thái Lan được chọn làm giám quản, đã đặt cha Pierre Langlois (1680-1700), đang coi sóc giáo xứ Phủ Cam (kinh đô Huế), làm Tổng đại diện Giáo phận Đàng Trong.
Cha P. Langlois là một trong những vị Thừa sai Pháp nổi tiếng. Khắp Kinh đô Huế mọi người đều biết “Ông cố Phêrô”. Cha là một thầy thuốc cao tay, rành phẫu thuật, lại thông thạo tiếng Việt, đã soạn một cuốn Từ điển Pháp-Việt và một cuốn Văn phạm Việt ngữ được các Thừa sai hoan nghênh. Đến Đàng Trong năm 1680, cha được chúa Hiền hậu đãi, cho ở trong vương phủ tại Kim Long. Năm 1687, cha dọn qua Phủ Cam, xây bệnh xá và hằng ngày phát thuốc chẩn bệnh. Nhờ đó cha đã đưa được lắm người về với Chúa, trong đó có nhiều phu nhân, nhiều quan viên đội cận vệ. Cha còn tậu đất, quy dân, lập họ đạo Phủ Cam, nay là Giáo xứ chính tòa của Tổng Giáo phận Huế, mà cha là quản xứ tiên khởi.
Ngày 29-07-1691, tại Thái Lan, linh mục Francisco Perez được tấn phong Giám mục Đại diện Tông tòa (1643-1687-1728).
Ngày 27-09-1691, Đức cha về nhận Giáo phận, đặt tòa Giám mục tại Phủ Cam. Khởi đầu đời Giám mục của ngài, Minh vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) cũng lên ngôi nối nghiệp. Ông đã ra lệnh bách hại đạo, triệt hạ các nhà thờ, bắt giáo dân làm phu phen tạp dịch và phải đóng thuế gấp 3 lần lương dân… Đức cha cùng Giám mục phó Marin Labbé phải trốn khỏi tòa Giám mục, lênh đênh sông nước đến tận Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Ngày 29-9-1728, Đức cha qua đời.
Năm1728 Đức cha Alessandro di Alexandris, người Ý, kế vị. Dưới thời ngài, Giáo phận mở rộng đến tận cùng miền nam, sang cả Cao Miên (bấy giờ gọi là Thủy Chân Lạp).
Ngày 30-05-1740 (có tài liệu ghi là 30-09), Đức Khâm sai Elzéar des Achards de la Baume (người Pháp) thành lập chủng viện Thợ Đúc. Một trang sử mới cho việc đào tạo hàng Giáo sĩ Việt tại chính trong nước và nhất là tại Giáo phận Đàng Trong. Chủng viện nằm dưới chân Thành Lồi (di tích Chàm), cạnh trụ sở các cha Thừa sai Pháp, thánh hiệu là Carôlô. Đức Khâm sai lâm bệnh từ trần ngày lễ Phục sinh 2-4-1741, an táng trong nhà thờ Thợ Đúc.
Vị Thừa sai Armand Lefèbvre (MEP), đang ở Thái Lan, kế vị năm 1741. Ngài đến Huế năm 1744 và lập tòa Giám mục ở Thợ Đúc. Đức cha chú tâm đến việc đào tạo hàng Giáo sĩ Việt và tái lập hội Thầy giảng. Nhờ đó, khi Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) bách hại các tín hữu và trục xuất tất cả các Thừa sai ra khỏi Đàng Trong (1750), chỉ trừ cha Koeffler, Dòng Tên, giữ chức ngự y trong vương phủ. Bấy giờ Giáo phận vẫn có 3 linh mục do Đức cha tấn phong và 200 Thầy giảng làm việc.
Dưới thời Đức cha Guillaume Piguel làm Giám mục Tông tòa Đàng Trong (1722-1762-1771), Giáo phận chưa hết cơn bách hại. Đức cha phải lưu lại Cao Miên và sống cuộc sống rất thanh đạm.
Huệ vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) lên ngôi kế vị Võ vương, giảm bớt bắt bớ đạo. Các Thừa sai âm thầm, dè dặt trở lại Giáo phận: 4 cha Dòng Tên, 2 cha Dòng Phanxicô. Các nhà thờ, nhà nguyện từ từ mọc lên. Đức cha đi kinh lược Giáo phận 2 lần (1765 và 1766), để viếng thăm, nâng đỡ giáo dân đã 15 năm không có chủ chăn.
Từ ngày chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) vào Đàng Trong cho đến Huệ vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) nối nghiệp Chúa, tất cả là 9 đời. Đất nước bấy giờ rơi vào cảnh chiến tranh giành ngôi báu giữa ba phe: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn (1774-1801), đời sống dân chúng rất cơ khổ, đạo bị bắt bớ dữ dội.
Trong bối cảnh ấy, Đức cha Pigneau de Béhaine (1741-1771-1799) kế vị, làm chủ chăn Giáo phận. Vì chiến tranh, Đức cha chỉ hoạt động ở miền Nam, còn các tỉnh ở phía bắc Giáo phận trao cho Giám mục phó Jean Labartette (1744-1784-1823). Đức cha Labartette đặt tòa Giám mục tại Di Loan, rồi Cổ Vưu tỉnh Quảng Trị, nhưng 9 năm sau mới được tấn phong (1793).
Hàng giáo sĩ có 2 Thừa sai Pháp: Longer và Darcet, 3 Linh mục Việt, 4 Linh mục Dòng Tên, và 6 tu viện Mến Thánh Giá đông đến 200 chị.
Mặc dù chiến tranh, cuộc sống khó khăn thiếu thốn, Đức cha vẫn quan tâm đến việc đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ và các thầy giảng. Ngài mở chủng viện Hòa Ninh (1784-1801) rồi dời vào An Ninh (1802-1820) ở Quảng Trị.
Sau 8 năm chiến tranh (1771-1778), Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế lập nên triều đại Tây Sơn. Cuối năm 1797, bắt được một bức thư của Nguyễn Ánh gởi cho Đức cha Labartette, Cảnh Thịnh (1792-1802), con của Quang Trung, đâm nghi ngờ Công Giáo tiếp tay cho giặc, nên tháng 8-1798 đã ra chiếu chỉ cấm đạo.
Ở vùng Dinh Cát (Quảng Trị), quân Tây Sơn bách hại tín hữu một cách tàn khốc, khiến nhiều giáo dân phải chạy vào ẩn trốn tại xóm rú La Vang của họ đạo Cổ Vưu nằm sát chân dãy Trường Sơn, cách cổ thành Quảng Trị khoảng hơn 4 cây số về hướng Nam.
Theo khẩu truyền, vào năm 1798, Đức Mẹ đã hiện ra tại đây với họ. Tại Phú Xuân, cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu bị bắt ngày 7-8-1798 và bị chém đầu ngày 17-9-1798 tại Bãi Dâu. Ngài là thánh tử đạo tiên khởi của Giáo phận Huế hiện thời.
Đức Cha Pigneau de Béhaine qua đời tại Qui Nhơn năm 1799, Giám mục phó Jean Labartette trở thành Đại diện Tông tòa (từ 1799 đến 1823).
Năm 1802, Nguyễn Ánh lấy lại giang sơn từ tay nhà Tây Sơn và lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Gia Long, đặt quốc hiệu Việt Nam, chọn Phú Xuân (Huế) làm kinh đô, thống nhất đất nước bị chia cắt 150 năm.
Nhớ công ơn của Giám mục Pigneau, Gia Long nhân nhượng đối với các Thừa sai Pháp, đạo vì vậy mà được một thời yên ổn.
Năm 1803, tận dụng tình thế yên ổn, Đức cha Labartette họp Công đồng Giáo phận Đàng Trong tại Trí Bưu, bàn hướng đi và hành động trong tình thế mới.
Năm 1804 Đức cha cho xây dựng tòa Giám mục Đàng Trong tại Trí Bưu, trên thửa đất rộng 2 mẫu 4 sào do họ đạo dâng cúng.
Giáo phận Đàng Trong lúc nầy có Đức cha Labartette, 80 tuổi, 4 Thừa sai Pháp, 18 Linh mục Việt, 2 Cha Dòng Capuxinô người Ý, mấy chục Thầy giảng, và hơn 400 nữ tu Mến Thánh Giá sinh hoạt trong 16 tu viện khắp Giáo phận.
Đức cha Labartette lâm bệnh, qua đời ngày 6-8-1823 tại Cổ Vưu và được an táng dưới chân tháp nghĩa trang của giáo xứ.
Bốn năm sau, vào ngày 18-9-1827 Tòa thánh đặt Thừa sai Jean-Baptiste Taberd làm Giám mục kế vị coi sóc Giáo phận Đàng Trong (1794-1827-1840).
Trước đó, năm 1819, vua Gia Long băng hà, thái tử Đảm lên ngôi lấy hiệu là Minh Mạng (1820-1840). Những năm đầu tân vương chưa ra tay đàn áp, Giáo phận còn được bình an. Chỉ từ 1833, vua mới thực sự bách hại khốc liệt.
Các thánh tử đạo đặc biệt dưới triều Minh Mạng trên địa bàn sau này thuộc Giáo phận Huế gồm có Thừa sai François Isidore Gagelin (Kính) (+ 18-10-1833); quan thị vệ Phaolô Tống Viết Bường (+ 23-10-1833); Thừa sai Joseph Marchand (Du) (+ 30-11-1835); quân nhân Anrê Trần Văn Trông (+ 28-11-1835); Thừa sai François Jaccard (Phan) (+ 21-9-1838); chủng sinh Tôma Trần Văn Thiện (+ 21-9-1838); linh mục Vinh Sơn Nguyễn Thế Điểm (+ 24-11-1838); trùm họ Antôn Nguyễn Hữu Năm (+ 10-7-1840); y sĩ Ximon Phan Đắc Hòa (+ 18-12-1840) Cũng phải kể thêm đấng đáng kính là Thừa sai Gilles Delamotte, chết rũ tù (+ 03-10-1840).
Từ ngày Minh Mạng ra lệnh bắt đạo toàn quốc (1833), Đức cha Taberd phải lánh qua Thái Lan và sang Singapore (1834), và ngài qua đời 1840.
Đức cha Étienne Cuénot (Thể) kế vị (1840-1844). Trong 26 năm ngài sống ở Gò Thị (Quy Nhơn), Đức cha Cuénot Thể chẳng đi đâu được, chỉ viết thư luân lưu, viết và dịch sách đạo, dọn bài giáo lý gởi đi khắp các họ đạo cổ võ các linh mục, các thầy giảng, theo dõi mọi chuyện qua các báo cáo, nên không có việc gì xảy ra trong Giáo phận mà ngài chẳng hay. Linh mục cũng như giáo dân cảm thấy mình có người nâng đỡ, lên tinh thần rất nhiều.
Năm 1836, 10 linh mục Việt Nam được phong chức, trong đó Huế có 3 vị: cha Gioan Đoạn Trinh Hoan người Vân Dương, cha Tađêô Phan Văn Thận người Kẻ Sen, cha Nhân người Gia Môn.
Đức cha tổ chức lại chủng viện Di Loan (Quảng Trị), tập trung được 250 nữ tu Mến Thánh Giá trong 18 tu viện. Riêng Huế, tại Quảng Bình có tu viện MTG Trung Quán, Mỹ Hương, Kẻ Bàng, do cha Gioan Đoạn Trinh Hoan phụ trách. Tại Quảng Trị có tu viện Di Loan, Nhu Lý. Tại Thừa Thiên có tu viện Dương Sơn, Thợ Đúc.
Tận dụng giai đoạn bình yên dưới triều vua Thiệu Trị (1841-1847), Đức cha mở Công đồng Gò Thị (10-1841), quyết định gởi lại chủng sinh du học Penang, (một đại chủng viện trên đảo Penang, Malaysia, hình thành từ năm 1658 do hội Thừa sai Paris). Ngài cũng cử nhiều Thừa sai và Thầy giảng đi truyền giáo ở Kontum, Ban Mê Thuột. Trong Giáo phận, ngài tổ chức học hỏi cho các linh mục hằng năm thi đua truyền giáo giữa các xứ đạo. Với người đã chối Chúa muốn trở về, ngài yêu cầu họ mời gọi một tân tòng khác nhập đạo. Số tín hữu gia tăng nhanh.
3. Thuộc Giáo phận Đông Đàng Trong (1844-1850)
Năm 1844, theo Công đồng Gò Thị (10-1841), từ sự chuẩn bị của Giám mục Cuénot, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI đã tách Giáo phận Đàng Trong thành hai: Tây Đàng Trong (gồm Nam Kỳ lục tỉnh và Cao Miên, trung tâm là Sài Gòn) giao cho Đức cha Dominique Lefèbvre (Nghĩa, nguyên giám đốc đại chủng viện Cái Nhum) và Đông Đàng Trong (từ Nam Quảng Bình đến Bình Thuận, trung tâm là Quy Nhơn) được Đức cha Cuénot Thể tiếp tục cai quản.
Từ Gò Thị, Đức Cha Cuénot lại vươn tầm nhìn xa tận Quảng Trị, mặc dầu chưa một lần đặt chân lên đất Ái Tử – Thuận Hóa. Để chuẩn bị cho việc tách lập một Giáo phận mới ở phía bắc của Giáo phận Đông Đàng Trong, Đức cha đã có những động thái:
– cho lập chủng viện Kẻ Sen (Quảng Bình) năm 1847 và tái lập chủng viện Di Loan (Quảng Trị) năm 1849.
– cuối tháng 9-1846 cho mời Thừa sai François-Marie Pellerin đang ở vùng Bình Định vào Gò Thị.
Đêm 4-10-1846, Đức cha Cuénot đã tấn phong cha Pellerin (1813-1846-1862) làm giám mục phó đặc trách truyền giáo phía bắc Giáo phận.
Do chiếu chỉ phân sáp, Đức cha Cuénot đã rời Gò Thị đi lánh nạn nơi này nơi kia. Ngày 24-10-1861 Đức cha Cuénot bị bắt khi đang trốn ẩn tại nhà bà Madalena Huỳnh Thị Lựu,
Ngài chết rũ tù ngày 14-11-1861 trong nhà giam Bình Định vì đòn tra tấn và bệnh kiết lỵ. Đức cha Cuénot sống ở Việt Nam 34 năm.
4. Giáo phận Bắc Đàng Trong, rồi đổi thành Giáo phận Huế ((1850-1960)
Giáo phận Bắc Đàng Trong (1850-1824).
Năm 1850 Tòa Thánh lại chia 2 Giáo phận ở Đàng Trong thành 4 Giáo phận:
– Tây Đàng Trong (Sài Gòn) giao cho Đức cha Dominique Lefebvre (Nghĩa) (+1865)
– Nam Đàng Trong (Nam Vang) giao cho Đức cha Jean-Claude Miche (Mịch) (+1873).
– Đông Đàng Trong (Quy Nhơn) giao cho Đức cha Étienne Cuénot (Thể) (+1861)
– Bắc Đàng Trong (Huế) giao cho Đức cha François-Marie Pellerin (Phan) (+1862)
Ðức cha François-Marie Pellerin Phan, (1813-1846-1862) trở thành vị Giám mục tiên khởi của Giáo phận mới mang tên Bắc Ðàng Trong, được Ðức Giáo hoàng Piô IX thành lập ngày 27-08-1850 qua sắc chỉ Postulat Apostolici.
Năm 1851, Đức cha ra Huế nhậm chức, đặt tòa Giám mục tại Di Loan, Quảng Trị.
Giáo phận lúc ấy có 2 Thừa sai Pháp Jean-Paul Galy ở Kẻ Sen và Joseph Sohier ở Di Loan, 12 linh mục người Việt, 2 chủng viện Di Loan và Kẻ Sen, 7 tu viện Mến Thánh Giá Kẻ Bàng, Mỹ Hương, Di Loan, Nhu Lý, Bố Liêu, Dương Sơn, Phủ Cam, 24.000 giáo dân và một số ruộng đất chung quanh kinh thành Huế.
Ngày 17-8-1851, Đức cha tấn phong cha Sohier Bình làm Giám Mục Phụ Tá tại Di Loan (1818-1851-1876).
Trong giai đoạn này, Tự Đức (1848-1883) đã ban hành những sắc dụ cấm đạo rất có hệ thống và quyết liệt.
Sắc dụ năm 1851 hạ lệnh “bắt và liệng xuống sông tất cả các Tây dương đạo trưởng… chặt làm đôi các đạo trưởng Việt Nam, dù đạp hay không đạp thập tự…. chặt các kẻ oa trữ đạo trưởng…”.
Sắc dụ 1855 ra hạn “cho các quan ở tỉnh 3 tháng để xuất giáo, dân chúng và binh sĩ được 6 tháng để bỏ đạo. Phải đốt tất cả các nhà thờ, nhà xứ; cấm giáo hữu không được tập trung”.
Sắc dụ 1857 lại dạy “khắc vào má hai chữ Tả Đạo và tên làng” cho giáo hữu, “những quan lại chểnh mảng phải mất chức”.
Sắc dụ 1859 ra lệnh “bắt các chức việc họ, thầy giảng”.
Sắc dụ 1860 cấm không cho phụ nữ, trẻ em Công Giáo ra khỏi làng, “vì chúng dùng những đàn bà xấu nết mà chúng gọi là trinh nữ, là bà phước để giấu giếm các đồ thờ, chuyển đưa thư từ và tin tức”.
Cuối cùng vua Tự Đức hạ một sắc dụ quyết liệt có ý làm tản mác người Công Giáo ra khắp nơi trong nước, buộc cư trú giữa lương dân để tận diệt, gọi là “Phân Sáp” (1861).
Các Thánh tử đạo dưới triều Tự Đức (thuộc Huế) có quan thái bộc Micae Hồ Đình Hy (+ 22-5-1857), cai đội Nguyễn Văn Trung (+ 6-10-1858), cai đội Giuse Lê Đăng Thị (+ 24-10-1860), linh mục Gioan Đoạn Trinh Hoan ngày 26-5-1861, trùm họ Matthêô Nguyễn Văn Phượng (+ 26-5-1861), giám mục Têphanô Cuénot Thể (+ 14-11-1861).
Mặc dù phải trốn tránh nhà cầm quyền bắt bớ, Đức cha Pellerin vẫn hoạt động tích cực với các chương trình trọng điểm:
– Đào tạo linh mục: chăm lo vun trồng 2 chủng viện Di Loan, Kẻ Sen. Gửi chủng sinh du học chủng viện Penang (Malaysia), truyền chức linh mục cho 23 thầy. Đức cha thường xuyên có mặt ở chủng viện.
– Củng cố các cộng đoàn nữ tu Mến Thánh Giá, dạy sống theo quy luật dòng, dạy đọc kinh chung giống nhau trong mọi tu viện.
– Đào tạo tông đồ giáo dân: lấy cán bộ ở địa phương làm nòng cốt và chỗ dựa, lập đoàn “Thầy giảng bậc nhì” gồm những giáo dân đã có gia đình. Họ là những ông Câu, ông Biện, ông Trùm trong cộng đoàn, là nền tảng cho sự hình thành và phát triển các giáo xứ.
Đức cha chia Giáo phận làm 3 Giáo hạt: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Mỗi hạt chọn lấy một người biết chữ, đạo đức, khôn ngoan, trải việc đời, giỏi việc đạo, nhất là trung tín phục vụ Giáo hội trong gian khổ làm Trùm hạt. Đó là 3 vị: Lương y Matthêu Nguyễn Văn Phượng tức Đắc, người Sáo Bùn (thân phụ nữ tu Nguyễn Thị Thủ, nhà phước MTG Mỹ Hương), làm Trùm hạt Quảng Bình; Lương y Phanxicô Xaviê Lê Thiện Thìn, người Trí Bưu (thân phụ linh mục Phanxicô Xaviê Lê Thiện Cần), làm Trùm hạt Quảng Trị, và quan Thái bộc Micae Hồ Đình Hy, người Nhu Lâm (thân phụ linh mục Giuse Hồ Đình Tính), làm Trùm hạt Thừa Thiên.
Ngoài ra, Đức cha còn tổ chức các hội đoàn trong Giáo phận (hội Đức Bà Mân Côi, hội Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu), dạy làm những việc đạo đức (tôn sùng Trái Tim ĐCG, Trái Tim Đức Bà, kính 7 sự Thương khó Đức Mẹ, làm Tuần Cửu nhật). Ngài cho in sách “Mục lục”, sách “Kinh nghĩa” để giáo hữu trong Giáo phận đọc và học.
Từ tháng 10-1856 Đức cha sang Macao rồi về Pháp. Năm 1860, Đức cha về Penang để trở lại Việt Nam, nhưng không vào được Giáo phận.
Ngày 13-9-1862 ngài qua đời và an táng tại Penang, 49 tuổi, làm linh mục được 27 năm, giám mục được 17 năm, 5 năm lưu vong.
Những năm Tự Đức bắt đạo ác liệt ấy, Đức cha phụ tá Joseph Sohier ở tại Kẻ Sen để lo chủng viện. Kẻ Sen là xứ đạo gần núi dễ trốn tránh. Vị chủ chăn đã bao phen phải chạy vào rừng, đương đầu với đủ thứ khó khăn, gian lao, nguy hiểm.
Năm 1862, Đức cha Sohier Bình kế vị cai quản Giáo phận.
Năm 1863, tình hình yên ổn, Đức cha Sohier đã rời Kẻ Sen về Huế, đặt tòa Giám mục tại Kim Long. Đức cha triệu tập mọi linh mục về tòa Giám mục tĩnh tâm (đầu năm 1864) với những quy định đến hôm nay còn thực hành:
(1) Kể từ nay, mỗi linh mục được phái đi phục vụ đều có “Bài Sai”
(2) Mỗi giáo sở phải có nhà thờ, nhà xứ, giáo dân.
(3) Mỗi giáo xứ phải có sổ Bí tích, kê khai đầy đủ lý lịch từng tín hữu, từng gia đình.
(4) Các cha phải chăm lo mục vụ, dạy giáo lý, tránh gương xấu cho bổn đạo.
(5) Phải tuyển chọn các thanh thiếu niên có hạnh kiểm tốt, khả năng trí tuệ, gia đình đạo đức đưa vào chủng viện.
Đức cha cũng lập sở Dục anh Thanh Tân để nuôi dạy con cái mồ côi của những gia đình bị bách hại trong cuộc “Phân sáp” vừa qua. Ngài đặt cha Hồ Đình Tính (con của Thánh Micae Hồ Đình Hy) làm quản lý sở. Ngài còn canh đất Ba Trục làm sở Tài chính của Giáo phận.
Sau khi chấn chỉnh lại Giáo phận, ngày 10-7-1864 Đức cha đi Âu Châu.
Tháng 6-1876, Đức cha đi kinh lý vùng Quảng Bình, khi tới giáo xứ Kẻ Sen thì bị kiết lị và qua đời ngày 3-9-1876, an táng tại đây, 58 tuổi, 34 năm linh mục, 23 năm giám mục.
Tòa thánh chọn cha Jean Pontvianne Phong kế vị (1939-1877-1879). Thánh lễ truyền chức được cử hành tại Nhà thờ Kim Long ngày 12-5-1878.
Ngày 30-7-1879 Đức cha lâm bệnh và qua đời, 40 tuổi, làm giám mục được 14 tháng. Trong thời gian ấy ngài giao việc điều hành cho Cha chính Louis-Étienne Dangelzer.
Một năm sau, Tòa thánh chọn cha Antoine Caspar Lộc đang phục vụ Giáo phận Tây Đàng Trong làm Giám mục kế nhiệm (1841-1880-1917). Lễ tấn phong tổ chức ngày 24-8-1880 tại Sài Gòn và đầu tháng 9, Đức cha ra Huế nhậm nhiệm vụ.
Đức cha đi thăm và ở lại với các cha quản xứ vùng sâu vùng xa, để dạy giáo lý, ban các bí tích, cảm thông đời sống của các vị.
Năm 1882, Đức cha xây đại chủng viện mới ở Thợ Đúc, thay thế chủng viện ở Kim Long được mở một năm trước đó, trùng tu Tiểu chủng viện An Ninh lần 2 (mở lại thời Đức Giám Mục Sohier Bình năm 1864). Đức cha giao cho cha bề trên Claude Bonin Ninh xây nhà nguyện bằng gạch, có tháp cao và một nhà nguyện kính Đức Bà; xây nhà lầu hai tầng làm phòng ngủ, phòng học cho các chú rất vững chắc.
Ngài khánh thành cơ sở chủng viện ngày 21-11-1905. (Tiểu chủng viện này sẽ tồn tại tới năm 1953).
Đức cha đến Huế chưa được bao lâu, thì xảy ra thảm cảnh Văn Thân “bình Tây sát Tả” 1883-1886, gây tang tóc lớn cho Giáo phận.
Cuối năm 1883, Văn Thân bắt đầu giết hại tín hữu các họ đạo ở phía nam Thừa Thiên (Châu Mới, Nước Ngọt, Cầu Hai, Truồi), ở phía tây Thừa Thiên (Buồng Tằm).
Đêm 4 rạng ngày 5-7-1885, Tôn Thất Thuyết ra lệnh tấn công đồn Mang Cá và Tòa Khâm của Pháp. Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở, Quảng Trị rồi mở chiến dịch “Cần Vương, Bài ngoại, Sát tả”. Từ ngày đó Văn Thân lại bao vây và giết hại người Công Giáo ở Dinh Cát, Quảng Trị (1885-1886), ở Quảng Bình (1886). Cả Giáo phận 12 linh mục, một vạn giáo hữu, vô số nhà thờ, nhà xứ, sở nữ tu, nhà tín hữu, ruộng vườn của cải… bị Văn Thân sát hại, đốt phá, cướp bóc.
Tạm yên nạn Văn Thân, Đức cha Caspar Lộc dạy tìm kiếm giáo dân và giúp họ đoàn tụ với gia đình. Tín hữu trở về xứ, xây dựng lại nhà thờ, nhà cửa.
Đức cha đặt lại các vị quản xứ, xây các lăng Tử đạo, ghi tên các chứng nhân đức tin bị Văn Thân tàn sát: Hòa Viện, Giáo Liêm, Hoan Thịnh (Kẻ Nghĩa), Cổ Vưu (Trí Bưu), Nhu Lý, An Lộng, Đầu Kênh, Phúc Lộc, Bích khê, Dương Lệ, Đại Lộc, Dương Lộc, Đồng Giám, Kẻ Vịnh, Kẻ Văn, Gia Bình, Bái Sơn, Gia Môn, Cao Xá, Loan Lý, An Lễ, Ba Ngoạt, Mỹ Phước, Buồng Tằm, Châu Mới.
Ngày 25-1-1889, Đức cha mời các nữ tu Saint-Paul de Chartres đến Huế mở nhà Dục anh Kim Long, mở trường nữ trung học Jeanne d’Arc và bệnh viện Pasquier.
Năm 1903, Đức cha mời các tu sĩ Dòng Lasan đến Huế mở trường dạy học. Năm 1904 trường Pellerin được xây dựng.
Ngoài việc từ thiện, văn hóa, Đức cha còn mua đất ruộng để tạo nguồn thu chi cho Giáo phận. Có tới 800 mẫu ruộng thuần thục ở các làng Nông, Truồi, Phú Bài, Lương Văn, Tô Đà, Thần Phù, Vinh Hòa, Hòa An, Nam Trường, Phú Thứ…
Đặc biệt Đức cha chú tâm đến anh chị em dự tòng, tân tòng. Ngài đặt nhiều cha chuyên lo việc dạy giáo lý cho những ai xin nhập đạo. Có những gia đình hoàng phái theo Chúa, con cái làm linh mục. Trước đây số giáo hữu chừng 18.000, nay trong đời ngài lên tới 62.000.
Một điều khởi sắc trong Giáo phận đương thời là có nhiều nhà thờ lợp ngói. Đức cha là người khởi sự với nhà thờ Kim Long (1880). Các cha Pháp lẫn Việt cũng đã làm như vậy.
Cuối năm 1898 cha Eugène Allys Lý xây nhà thờ Phủ Cam rất đẹp.
Đời Đức cha Caspar Lộc có hai sự kiện nổi bật:
– Ngày 27-5-1900, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII phong Chân phước cho 64 vị Tử đạo Việt Nam, trong số này có 9 vị thuộc Giáo phận Huế: 1- Emmanuen Nguyễn Văn Triệu, 2. Isiđôrô Gagelin (Kính), 3- Phaolô Tống Viết Bường, 4- Anrê Trần Văn Trông, 5- Phanxicô Jaccard (Phan), 6- Tôma Trần Văn Thiện, 7- Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm, 8- Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh, 9- Ximon Phan Đắc Hòa.
– Tổ chức Đại hội La Vang lần đầu tiên năm 1900. Trong Đại hội này, Đức cha khánh thành Đền thánh Đức Mẹ Lavang và quy định cứ 3 năm mở Đại hội một lần vào giữa tháng 8.
Dưới thời Đức cha có hai vị Thừa sai người Pháp nhập tịch Giáo phận rất danh tiếng: Đó là linh mục Léopold Cadière (1892-1955), sử gia, nhà Huế học, và linh mục Henri Denis (1903-1933), tổ phụ Dòng Phước Sơn Việt Nam.
Năm 1906, Đức cha về Pháp chữa bệnh và năm sau thì từ chức, hưu trí tại quê nhà Obernai (Alsace) cho đến lúc qua đời ngày 13-6-1917, hưởng thọ 75 tuổi, 52 năm linh mục và 37 năm giám mục.
Tòa Thánh chọn cha Eugène Marie Allys Lý, quản xứ Phủ Cam và quản hạt Bên Thủy (1885-1908) kế vị (1852-1908-1936). Lễ tấn phong Giám mục tổ chức tại nhà thờ Phủ Cam ngày 24-5-1908.
Việc đầu tiên của vị chủ chăn mới là chuyển tòa Giám mục từ Kim Long về Phủ Cam và lấy nhà thờ Phủ Cam làm chính tòa.
Đức cha giao cho cha Jean Léculier Lựu xây tòa Giám mục và sở Quản lý Giáo phận. Năm 1909, ngài về ở tòa Giám mục mới.
Đức cha đặt cha François Stoeffler Thể làm quản xứ Phủ Cam và cha Léculier Lựu làm quản lý Giáo phận đồng thời làm tuyên úy cho hai trường Pellerin và Jeanne d’Arc.
Năm 1911 Đức cha cũng cho mua một thửa đất và năm 1914 xây nhà thờ Phanxicô Xaviê, khánh thành ngày 15-8-1918. Cha Jean Léculier Lựu là quản xứ đầu tiên họ đạo này.
Đức cha lại còn mua một thửa vườn khá rộng ở phố Gia Hội, xây một nhà thờ nhỏ giao cho cha sở Nam Phổ kiêm, lập nên giáo xứ Gia Hội. Tại Gia Hội các Sư huynh Lasan cũng mua một thửa vườn lập trường tiểu học Thánh Louis, về sau trao lại cho các chị Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, gọi là trường Mai Khôi Gia Hội.
Trong Thành nội, Đức cha đã cho xây nhà thờ Tây Linh.
Năm 1910, Dòng Kín Carmel (gốc từ Hà Nội) được thành lập tại Huế.
Năm 1921, Đức cha lập dòng nữ Con Đức Mẹ Vô Nhiễm để dạy giáo lý, văn hóa cho trẻ em trong các giáo xứ.
Năm 1924, Đức cha cũng lập một dòng nam mang tên là Dòng Thánh Tâm để dạy văn hóa cho trẻ em, đồng thời nhằm đào tạo trong tương lai những Thầy giảng. Đức cha trao cho cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn lo việc xây cất cơ sở, đào tạo các thầy, làm bề trên dòng cho đến khi Tòa thánh đặt ngài làm Giám mục Bùi Chu năm 1935.
Cũng năm 1924, Đức cha cho phép cha Giuse Trần Văn Trang lập Dòng Mến Thánh Giá Cải Cách tại giáo xứ Kim Đôi, sau đổi thành Dòng Con Đức Mẹ Đi Viếng năm 1967, dưới thời Đức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền.
Năm 1925, theo yêu cầu của Đức Giám Mục Henry Lecroart, Khâm sai Tòa thánh tại Đông Dương, Tỉnh dòng Thánh Anne de Beaupré (Canada) đã gửi hai linh mục và một trợ sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đến Huế.
Năm 1933, cha Henri Denis Thuận (MEP) sáng lập Dòng Thánh Mẫu Phước Sơn tại Quảng Trị, một chi nhánh của Dòng Biển Đức Xitô bên Âu Châu.
Đức cha gởi nhiều đại chủng sinh đi du học ngoại quốc: thầy Phêrô Nguyễn Văn Lành và thầy Phêrô Ngô Đình Thục. Sau khi làm linh mục trở về Huế, cha Thục đã được Tòa thánh đã chọn làm Giám mục Vĩnh Long tháng 11-1939, rồi làm Tổng Giám mục Huế (1960).
Từ năm 1908-1928, Đức cha phong chức linh mục cho 62 vị. Cả Giáo phận lúc đó có 68 linh mục Việt Nam, 2 vị về sau làm Giám mục là cha Phêrô Mactinô Ngô Đình Thục và cha Tađêô Lê Hữu Từ.
Các sự kiện nổi bật trong thời Đức cha Allys Lý:
– Ngày 02-5-1909, Đức Giáo Hoàng Piô X phong chân phước cho 20 vị Tử đạo Việt Nam, trong đó có 6 vị thuộc Giáo phận Huế: 1. Micae Hồ Đình Hy tử đạo 22-05-1857, 2. Phanxicô Nguyễn Văn Trung tử đạo 06-10-1858, 3. Giuse Lê Đăng Thị tử đạo 24-10-1860, 4. Mathêô Nguyễn Văn Phượng tử đạo 26-05-1861, 5. Gioan Đoạn Trinh Hoan tử đạo 26-05-1861, 6. Stêphanô Cuénot (Thể) tử đạo 14-11-1861.
Đổi tên Giáo phận Huế (1924)
– Ngày 03-12-1924, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã cho đổi tên một loạt các Giáo phận tại Việt Nam theo địa danh nơi đặt tòa Giám mục, bấy giờ là 10 Giáo phận gồm Hưng Hóa (trước là Thượng Đàng Ngoài), Bắc Ninh (trước là Bắc Đàng Ngoài), Hải Phòng (trước là Đông Đàng Ngoài), Hà Nội (trước là Tây Đàng Ngoài), Bùi Chu (trước là Trung Đàng Ngoài), Phát Diệm (trước là Duyên hải Đàng Ngoài), Vinh (trước là Nam Đàng Ngoài), Huế (trước là Bắc Đàng Trong), Qui Nhơn (trước là Đông Đàng Trong), Sài Gòn (trước là Tây Đàng Trong).
Giáo phận Huế lúc ấy có 44 Thừa sai, 83 linh mục, 35 sư huynh, 500 nữ tu, 68.000 giáo dân.
– Đức Giáo Hoàng Piô XI lập tòa Khâm mạng, và ngày 20-05-1925 qua tông thư Ex Officio Supremo, bổ nhiệm khâm sứ đầu tiên là Đức cha Constantino Ajuti, người Ý, coi cả vùng Đông Dương.
Năm 1930, Đức cha Allys đề nghị Tòa thánh chọn cha Alexandre Paul Chabannon Giáo (MEP), giám đốc đại chủng viện Phú Xuân làm Giám mục, rồi ngài xin từ chức (1931) và qua đời ngày 23-4-1936, thọ 84 tuổi, 61 năm linh mục, 28 năm giám mục.
Ngày 20-10-1930, Đức Khâm sứ Colomban Dreyer tấn phong Đức cha Alexandre Paul Chabannon Giáo (1873-1930-1936) kế vị. Ngài lập tức xây tòa Giám mục mà Đức cha Allys đã chuẩn bị mọi điều kiện, bên cạnh sở Nhà Chung hiện nay.
Ngày 14-8-1931, áp lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, với tư cách Đấng Bản quyền Giáo phận, Đức cha đã ký “Nghị định Thiết lập Hội dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm”, chính thức công nhận đường lối và tinh thần tu trì của hội dòng.
Năm 1933, Đức cha khai trương trường Thiên Hựu (Institut de la Providence) và đặt linh mục giáo sư tiến sĩ Ngô Đình Thục làm hiệu trưởng tiên khởi. Đây là một cơ sở giáo dục uy tín bậc nhất của Công Giáo giữa lòng xã hội tại Thừa Thiên và thành phố Huế.
Năm 1933, Tòa thánh bắt đầu trao quyền cai quản Giáo phận cho hàng giáo sĩ Việt Nam, đặt Đức cha G.B. Nguyễn Bá Tòng, Giám mục Việt Nam tiên khởi.
Hai năm sau,1935, Tòa thánh chọn cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn, Giáo phận Huế làm Giám mục Bùi Chu. Lễ tấn phong ở nhà thờ chính tòa Phủ Cam ngày 29-6-1935.
Đức cha Chabannon là vị Giám mục Tông tòa đầu tiên đặt các linh mục Việt Nam làm quản xứ, quản hạt và không phân biệt Thừa sai-bản xứ gì cả.
Đức cha lâm bệnh phải về Âu Châu chữa chạy và qua đời ngày 4-6-1936, hưởng thọ 63 tuổi.
Năm 1936, tờ tuần báo Vì Chúa do linh mục Giuse Maria Nguyễn Văn Thích làm chủ bút ra đời tại Huế.
Tòa Thánh chọn Cha chính François Marie Lemasle Lễ làm Giám mục kế vị (1874-1937-1946). Lễ tấn phong diễn ra tại nhà thờ Phủ Cam ngày 27-5-1937.
Đức cha thường xuyên đi kinh lược các giáo xứ.
Năm 1938, tổ chức Đại hội Đức Mẹ La Vang từ ngày 17 đến ngày 19 tháng 8.
Tháng 9, ngài cho lưu hành thư chung, mời gọi Giáo phận chuẩn bị mừng 100 năm các vị Tử đạo Jaccard Phan, Tôma Trần Văn Thiện, Vinh Sơn Nguyễn Thế Điểm.
Sang năm 1940, lại tổ chức mừng bách chu niên 2 Á thánh tử đạo Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (Năm) và Simon Phan Đắc Hòa.
Ngày 10-6-1940, cha Romain Guillauma và cha Corentin Colin thuộc đan viện La Pierre-Qui-Vire (Pháp) theo lời mời của Đức cha đến Huế.
Ngày 20-11-1937, Đức cha công bố Nghị định Thiết lập Dòng nữ Mến Thánh Giá Cải Cách tại họ đạo Kim Hai do cha Giuse Trần Văn Trang sáng lập.
Giáo phận trên đà lớn mạnh. Năm 1938, số giáo dân: 74.904 người. Linh mục Thừa sai Paris: 25 vị. Linh mục Việt Nam: 102 vị.
Cũng năm nầy, Tòa thánh bổ nhiệm thêm một vị Giám mục gốc Huế: Đức cha Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục làm Giám mục Vĩnh Long.
Các tổ chức Công Giáo Tiến hành danh cho giáo dân cũng nở rộ trong Giáo phận: Thanh Sinh công, Hội Từ thiện Vinh Sơn, Dòng ba Phanxicô, Hướng đạo Công Giáo, Liên đoàn Công Giáo VN, Nghĩa binh Thánh Thể… Các tổ chức này được thành lâp trong khoảng thời gian từ 1937 đến 1945.
Năm 1940, Đức cha ra Directoire (Cẩm nang) hướng dẫn giáo sĩ Giáo phận.
Cuối năm 1941, 18 vị Giám mục Đông Dương họp tại tòa Khâm mạng Phủ Cam, bàn nhiều vấn đề của Giáo hội trong vùng.
Ngày 14-6-1945, cha Tađêô Lê Hữu Từ, Dòng Xitô Phước Sơn, vị linh mục thứ ba gốc Giáo phận Huế được Đức Giáo Hoàng Piô XII bổ nhiệm làm Giám mục hiệu tòa Daphnusia, Đại diện Tông tòa coi sóc Giáo phận Phát Diệm, kế nhiệm Đức Giám Mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng xin nghỉ hưu.
Đức cha Lemasle qua đời ngày 26-9-1946 tại Sài Gòn.
Cha Jean-Baptiste Urrutia Thi (1901-1948-1979) được Tòa thánh đặt làm Giám mục Giáo phận (1948-1960) do Đức Khâm sứ Antonin Drapier tấn phong tại nhà thờ chính tòa Phủ Cam ngày 27-05-1948.
Năm 1950, Giáo phận mừng kỷ niệm 100 năm thành lập, số giáo dân là 78.500.
Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước, làm cho Giáo phận Huế bị tổn thất mất mát nặng nề. Toàn bộ các giáo xứ, giáo họ với các địa danh nổi tiếng như Di Loan, An Ninh, Tam Tòa, Kẻ Sen, Kẻ Bàng… không còn tên trong lịch Công Giáo của Huế. Giáo phận mất đi 33 trên tổng số 83 giáo xứ, 155 trên tổng số 376 giáo họ.
Đa số giáo dân trong các phần đất nói trên di cư vào Nam.
Tiểu chủng viện An Ninh (chấm dứt ngày 08-05-1953, thời cha Giám đốc Anrê Bùi Quang Tịch) di chuyển vào đại chủng viện Phú Xuân, các thầy ở Phú Xuân được gởi vào Đại chủng viện Sài Gòn. Tiểu chủng viện Phú Xuân sẽ tồn tại đến đầu năm 1962.
Đức cha cho lập thêm nhiều giáo xứ mới, xây nhiều trường trung và tiểu học, tổ chức thêm nhiều đoàn thể Công Giáo Tiến hành trong Giáo phận.
Dưới thời ngài, Giáo hội Việt Nam có thêm một Giám mục gốc Huế, Đức cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền được cử làm Giám mục Sài Gòn (1955).
Sau 12 năm làm Giám mục Đại diện Tông tòa, Đức cha được thăng chức Tổng Giám mục hiệu tòa Karpatos và hưu trí ngày 24-11-1960, và Đức tân Tổng Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục (1897-1938-1984) từ Vĩnh Long ra kế vị.
Từ 1960-1964, Đức cha Urrutia Thi ở tại La Vang, hàng ngày ngồi tòa giải tội. Từ 1964-1966, ngài xin vào Kim Long, làm việc mục vụ như một quản xứ. Từ 1966, ngài ra trụ sở truyền giáo dành cho các cha MEP tại Đông Hà, và ở đó cho đến biến cố Mùa hè Đỏ lửa 1972 thì di tản vào Huế. Năm 1974, ngài về Pháp và qua đời ngày 15.11.1979, an táng tại Montbeton, Pháp, thọ 78 tuổi, coi sóc Giáo phận Huế 12 năm.
5. Tổng Giáo phận Huế (từ 1960)
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong Tông thư Venerabilium Nostrorum ngày 24-11-1960, đã thiết lập hàng Giáo phẩm Việt Nam với ba giáo tỉnh: Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Giáo tỉnh Huế gồm các Giáo phận: Huế, Qui Nhơn, Nha Trang, Kontum (1960), Ðà Nẵng (1963), Ban Mê Thuột (1967). Ngày 8-12-1960, Ðức Giáo Hoàng lại ban sắc lệnh nâng Giáo phận Huế lên cấp Tổng Giáo phận và trao quyền cai quản cho Ðức Tổng Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Ðình Thục (1960-1968).
Tổng Giáo phận lúc này gồm 162 linh mục triều và dòng với hơn 100.000 giáo dân.
Ngày 13-4-1961, các Giám mục miền Nam Việt Nam họp tại Huế, đã quyết định thiết lập Trung tâm Thánh mẫu Toàn quốc tại La Vang. Ngày 22-8-1961, đền thờ La Vang được cung hiến trở thành Tiểu Vương cung Thánh đường do Tông thư Magno Nos của Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII.
Cũng trong năm 1961, Đức Tổng Phêrô thống nhất các dòng Mến Thánh Giá trong Giáo phận, thành dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai Huế, nay là dòng Mến Thánh Giá Huế.
Đức Tổng cho xây Tiểu chủng viện Hoan Thiện và chuyển các tiểu chủng sinh từ tiểu chủng viện Phú Xuân về đó. Và niên khóa đầu tiên của TCV Hoan Thiện 1962-1963 với giám đốc là cha Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận.
Ngài cũng lập lại Ðại chủng viện Phú Xuân năm 1962, đưa các thầy Huế từ đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn về. Và từ nay, việc ðào tạo Linh mục ðýợc giao cho Hội Xuân Bích, gồm ðại chủng sinh từ 6 Giáo phận thuộc Giáo tỉnh Huế.
Để gia tăng lòng đạo đức cho cộng đoàn Dân Chúa, đặc biệt để cổ vũ lòng sùng kính Đức Mẹ La Vang, Giáo phận lúc ấy có tờ nguyệt san “Đức Mẹ La Vang” do cha Giuse Trần Văn Tường làm chủ nhiệm, và nguyệt san “Nguồn sống” do cha Phê rô Trần Hữu Tôn làm chủ nhiệm. Cả hai tờ đều do cha Giuse Nguyễn Văn Trinh làm chủ bút.
Đức Tổng cũng cho xây mới nhà thờ Chính toà Phủ Cam theo đề án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (khởi công đầu năm 1963), và mãi đến năm 2000, dưới thời Đức TGM Têphanô Nguyễn Như Thể, mới hoàn tất và được cung hiến.
Tình trạng Giáo phận Huế năm 1962 như sau: Số linh mục: 162 (112 triều, 50 dòng). Số tín hữu: 100.225 người. Giáo xứ có linh mục: 85. Giáo họ không có linh mục: 264. Nhà thờ có sức chứa trên 400 người: 95, và nhà thờ có sức chứa dưới 400 người: 143.
Năm 1962, Ðức Tổng Giám mục đi dự Công đồng chung Vatican II và phải ở lại Roma. Năm 1968, ngài từ chức, hưu trí và từ trần tại Hoa Kỳ vào ngày 13-12-1984.
Tòa Thánh đặt Ðức cha Philipphê Nguyễn Kim Ðiền (1921-1960-1988), dòng Tiểu đệ Charles de Foucauld, đang là Giám mục Cần Thơ, làm Giám quản Tông tòa Tổng Giáo phận Huế vào ngày 30-9-1964.
Một biến cố lớn của Giáo phận Huế giai đoạn này là ngày 13-4-1967, linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, 39 tuổi, Tổng Đại diện Gp Huế và là giám đốc Tiểu chủng viện Hoan Thiện, được Tòa thánh bổ nhiệm làm Giám mục Chánh tòa tiên khởi người Việt của Giáo phận Nha Trang, và được Đức Khâm sứ Tòa thánh Angelo Palmas chủ phong ngày 24-6-1967.
Sau khi Ðức Tổng Phêrô Ngô Ðình Thục từ chức, ngày 11.03.1968, Ðức cha Nguyễn Kim Ðiền được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục chính tòa (1968-1988).
Công việc nổi bật đầu tiên của ngài là tổ chức Đại hội La Vang theo định lệ. Đại hội La Vang lần thứ 16 đã được tổ chức long trọng vào ngày 14 đến 17-05-1964. Trong biến cố Tết Mậu Thân (1968), Giáo phận thiệt hại nặng nề về vật chất cũng như tinh thần.
Ngày 23 và 24/04/1970, Đức Tổng Giám Mục triệu tập Hội nghị Giám mục Giáo tỉnh Huế để thảo luận các vấn đề đào tạo linh mục, giáo dục chủng sinh, truyền giáo trong thời đại mới, đời sống Kitô hữu ngày nay, công lý và hòa bình.
Mùa hè đỏ lửa 1972, toàn bộ cơ sở vật chất của Giáo phận tại Quảng Trị hầu như hoàn toàn bình địa.Toàn bộ khu vực La Vang: thánh đường, nhà xứ, nhà tĩnh tâm, tu viện MTG… bị sụp đổ hoàn toàn, chỉ 3 cây đa bằng bêtông nơi linh đài Mẹ là còn đứng vững.
Biến cố tháng 4-1975 lại khiến Giáo phận sụt giảm nhân sự: 18 linh mục rời Huế vào nam và 13 ra hải ngoại. Giáo dân thì còn lại 41.941.
Ngày 7-9-1975, Ðức Tổng Giám mục tấn phong cha Têphanô Nguyễn Như Thể làm Giám mục phó với quyền kế vị (1935-1975-)
Vì hoàn cảnh, từ sau 1975 cho đến khi chết, Đức TGM chỉ truyền chức linh mục được 2 lần: 2 cha tháng 04-1975 và 4 cha tháng 01-1976.
Tại Đại chủng viện, nơi 45 thầy gốc Huế quy tụ lại để tiếp tục học hành, thì ngày 28-05-1978, 18 thầy (đa phần lớp lớn) bị nhà nước trục xuất. Còn Tiểu chủng viện Hoan Thiện thì bị đóng cửa ngày lễ Giáng sinh 1979.
Ngày 20-08-1978, Đại hội La Vang lần thứ 18 được tổ chức, sau khi bị gián đoạn 8 năm vì chiến cuộc (lần thứ 17 vào ngày 29-05-1970). Từ đó, các Đại hội lần thứ 19 năm 1981, thứ 20 năm 1984, thứ 21 năm 1987 tiếp tục diễn ra đều đặn tới nay.
Sau 8 năm thi hành sứ vụ, Đức Tổng Têphanô đệ đơn xin từ chức vì lý do sức khỏe và được Tòa thánh chấp thuận ngày 23-11-1983.
Đức TGM Philiphê vào miền Nam chữa bệnh và qua đời tại đây ngày 8-6-1988. Thi hài được an táng trong nhà thờ chính tòa Phủ Cam.
Ngay sau khi Đức Tổng Giám Mục qua đời, Tòa thánh đã bổ nhiệm Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, TGM Hà Nội, làm Giám quản Tông tòa.
Chính trong thời gian này, vào ngày 19-06-1988 tại Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tôn phong 117 chân phước tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh, trong đó có 16 vị của Tổng Giáo phận Huế.
Tháng 7-1989, TGP được vinh dự đón đặc sứ của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II là Đức Hồng Y Roger Etchegaray.
Khi Đức Hồng Y Giuse Maria đột ngột qua đời ngày 18.05.1990, cha Giacôbê Lê Văn Mẫn được Tòa thánh đặt là Giám quản Giáo phận, và chấm dứt 23-04-1994, khi Đức nguyên Tổng Giám mục phó Têphanô Nguyễn Như Thể được Tòa thánh bổ nhiệm làm Giám quản Tông tòa, coi sóc Huế.
Ngày 14-02-1992, Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II bổ nhiệm ngài làm thành viên của Hội đồng Tòa thánh Đối thoại Liên tôn.
Ngày 21-09-1994, Đức Giám quản Tông tòa Têphanô đã mở lại Ðại chủng viện Huế với 40 đại chủng sinh Huế và Đà Nẵng, và giao cho các linh mục thuộc hội Xuân Bích đào tạo.
Ngày 01-09-1994, Đức Giám quản Tông tòa Têphanô truyền chức mục cho 4 đại chủng sinh và 1 tu sĩ dòng.
Năm 1995, Đức Giám quản Tông tòa Têphanô được Hội đồng Giám mục Việt Nam, nhiệm kỳ 1995-1998, trao nhiệm vụ đặc trách Ủy ban Linh mục, Tu sĩ và Chủng sinh. Cũng trong năm này, ngài mở Học viện liên dòng nữ lần đầu tiên tại Giáo phận Huế.
Ngày 9-3-1998, Tòa thánh bổ nhiệm Ðức cha Têphanô Nguyễn Như Thể làm Tổng Giám mục chính tòa Huế.
Tháng 8-1998, ngài tổ chức Tam nhật Ðại hội kỷ niệm 200 năm Ðức Mẹ hiện ra tại La Vang và tháng 8-1999 kết thúc năm kỷ niệm.
Năm 2000, ngày 29-06, Ðức Tổng Giám mục Têphanô cử hành kỷ niệm 150 năm ngày thành lập Giáo phận Huế, và cung hiến nhà thờ chánh tòa Phủ Cam (được xây từ 1963 nhưng tới lúc đó mới hoàn thành). Năm 2002, Đức TGM bắt đầu cho xây Trung tâm Mục vụ của TGP và đến ngày 01 tháng 12 năm 2005 thì được khánh thành và làm phép do ĐHY Crescenzio Sepe, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, trong dịp viếng thăm Giáo Hội Việt Nam.
Ngày 19-02-2005, Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II bổ nhiệm cha Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng làm Giám Mục Phụ Tá Giáo phận, hiệu tòa Gadiaufala, khẩu hiệu “Sicut qui ministrat – Như một người phục vụ”. Ngày 07-04-2005, Thánh lễ Tấn phong giám mục tổ chức tại Phủ Cam.
Ngày 15-08-2012, tại Thánh địa La Vang, Đức Tổng Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, đã cử hành Thánh lễ trọng thể kính Đức Mẹ hồn xác lên trời và Nghi thức đặt viên đá đầu tiên xây dựng Vương cung thánh đường Đức Mẹ La Vang.
Đức cha Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, sau 7 năm 6 tháng làm Giám Mục Phụ Tá, ngày 18-08-2012, đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Giáo phận Huế, thay thế Đức Tổng Têphanô đến tuổi nghỉ hưu. Nghi thức nhậm chức diễn ra tại tòa TGM Huế vào ngày 20-08-2012 và Thánh lễ Tạ ơn được cử hành tại nhà thờ Chính toà Phủ Cam ngày 12-09-2012. Từ năm 2013-2016, ngài làm Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam. Ngài đã cho xây Tiền Chủng viện năm 2015. Ngày 29-10-2016, Tòa thánh chấp nhận đơn từ chức của Đức Tổng Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng và bổ nhiệm Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, GM Thanh Hóa, kế nhiệm.
Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh sinh ngày 22-11-1949 tại Ba Làng, Thanh Hóa, thụ phong linh mục năm 1992, thuộc Giáo phận Nha Trang, du học Pháp từ 1995 đến 2003 và đậu tiến sĩ triết học. Trở về nước ngài làm giáo sư Đại chủng viện Sao Biển, Nha Trang. Năm sau đó, 2004, ngài được Tòa thánh bổ nhiệm làm GM chính tòa Thanh Hóa, kế nhiệm Đức cha Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm.
Tháng 10-2016, ngài được bầu làm Chủ tịch HĐGM Việt Nam, nhiệm kỳ 2016-2019, kế nhiệm Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc.
Cùng với việc bổ nhiệm làm TGM chính tòa Huế, Đức Tổng Giuse được Tòa thánh bổ nhiệm làm Giám quản Tông tòa Giáo phận Thanh Hóa.
Đầu năm 2019, Đức TGM bắt đầu thực hiện các công việc chuẩn bị cho Năm thánh mừng kỷ niệm 170 thành lập Giáo phận (1850-2020) sẽ diễn ra vào ngày 01.01.2020.
Tháng 10-2019, trong Hội nghị HĐGM tại Hải Phòng, Đức TGM lại được tái đắc cử chức vụ Chủ tịch HĐGM, nhiệm kỳ 3 năm (2019-2022).
Số liệu thống kê Giáo phận tháng 8-2019 cho biết: Diện tích: 9773 km2 (gồm 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế và Quảng Trị). Dân số: trên 1.915.375 người. Tín hữu: 63.070. Linh mục: 151 triều, 73 dòng. Đại chủng sinh: 76. Tiền chủng viện: 13. Tu sĩ dòng giáo hoàng: 129. Tu sĩ dòng Giáo phận: 1345. Giáo lý viên: 1001.
PHỤ LỤC
I. CÁC VỊ GIÁM MỤC VÀ GIÁM QUẢN COI SÓC GIÁO PHẬN HUẾ:
ĐƯƠNG NHIỆM: Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh, (2016 -…
CÁC VỊ TIỀN NHIỆM
1850-1862: Giám mục François-Marie Pellerin (Phan).
1862-1878: Giám mục Joseph Sohier (Bình).
1878-1879: Giám mục Martin Pontviane (Phong).
1880-1908: Giám mục Marie Antoine Caspar (Lộc).
1908-1930: Giám mục Eugène Allys (Lý).
1930-1937: Giám mục Alexandre Chabanon (Giáo).
1937-1948: Giám mục François Lemasle (Lễ).
1948-1960: Tổng Giám mục Hiệu tòa: Jean Baptiste Urrutia (Thi).
1960-1968: Tổng Giám mục Chính tòa Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục.
1968-1988: Tổng Giám mục Chính tòa Philipphê Nguyễn Kim Điền.
1975: Tổng Giám mục phó Têphanô Nguyễn Như Thể
1988-1990: Hồng Y Giám quản Tông tòa Giuse Maria Trịnh Văn Căn.
1990-1994: Linh mục Giám quản Giáo phận Giacôbê Lê Văn Mẫn.
1994: Tổng Giám mục Giám quản Tông tòa Têphanô Nguyễn Như Thể.
1998-2012: Tổng Giám mục Chính tòa Têphanô Nguyễn Như Thể.
2012-2016: Tổng Giám mục Chính tòa Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng.
II. CÁC VỊ GIÁM MỤC GỐC GIÁO PHẬN HUẾ:
1. ĐGM. Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn (Ba Châu): GM Bùi Chu 1935 (+).
2. ĐTGM. Pr. Máctinô Ngô Đình Thục (Đại Phong): GM Vĩnh Long 1938 (+).
3. ĐGM. Tađêô Lê Hữu Từ (Di Loan): GM Phát Diệm 1945 (+).
4. ĐGM. Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền (Nhu Lý): GM Sài Gòn 1955 (+).
5. ĐHY. P.X. Nguyễn Văn Thuận (Phủ Cam): GM Nha Trang 1967 (+).
6. ĐGM. Alexis Phạm Văn Lộc (Kẻ Hạc, QB): GM Kontum 1975 (+).
7. ĐTGM. Têphanô Nguyễn Như Thể (Nho Lâm): TGM Huế 1998.
8. ĐHY. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (An Truyền): TGM Hà Nội 2010.
9. ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc (An Lộng): TGM Sài Gòn 2014 (+).
10. ĐTGM. P.X. Lê Văn Hồng (Trí Bưu): TGM Huế 2012.
11. ĐGM. Giuse Võ Đức Minh (Mỹ Đức, QB): GM Nha Trang 2009.
12. ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Đệ (Thạch Hãn): GM Thái Bình 2009.
Tổng hợp từ nhiều tài liệu
Nhóm Biên sử Giáo phận Huế, 10-2019