Nét đặc trưng của linh đạo giáo dân


NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA LINH ĐẠO GIÁO DÂN

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

I. GIÁO DÂN LÀ AI?

Giáo dân là một trong ba thành phần của Giáo Hội. Giáo Hội, Dân Thiên Chúa, gồm giáo dân, tu sĩ, và giáo sĩ[1].

Giáo sĩ là những người lãnh bí tích truyền chức, dù bí tích phó tế, linh mục, hay giám mục.

Tu sĩ là những người có ba lời khấn khó nghèo, trinh khiết, vâng phục, và có đời sống cộng đoàn, trong một hội dòng được Giáo Hội chuẩn nhận[2].

Công Đồng Chung Vaticanô II viết: “Hạn từ giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những Kitô hữu, không kể những người có chức thánh và những người thuộc bậc tu trì được Giáo Hội công nhận, nghĩa là những tín hữu nhờ bí tích Thánh Tẩy, được nhận hiệp vào thân thể Đức Kitô, làm thành Dân Thiên Chúa, và được tham dự vào những chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế của Đức Kitô theo cách thức của mình, đồng thời góp phần thực hiện sứ mạng của toàn dân Kitô hữu trong Giáo Hội và giữa thế giới” (LG, 31).

II. LINH ĐẠO LÀ GÌ?

Linh đạo là con đường thiêng liêng, con đường một người đi để đến với Thiên Chúa, con đường hay cách thế Thánh Thần hướng dẫn để đưa con người đến với Thiên Chúa. Con đường một người đi, có thể Thiên Chúa dùng để giúp những người khác đến với Thiên Chúa. Chúng ta thấy có linh đạo (thánh) Biển Đức, linh đạo Phanxicô, linh đạo Đaminh, linh đạo Inhã, v.v. Có nhiều tu sĩ và cả giáo dân nữa đi theo con đường thánh Biển Đức đã đi; cũng tương tự vậy có nhiều người đi con đường thánh Đaminh, thánh Phanxicô, thánh Inhaxiô đã đi.

Mọi linh đạo, đều họa lại con đường Đức Giêsu đã đi. Đức Giêsu nói: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Mọi linh đạo đều phải theo “con đường Giêsu.”

Linh đạo giáo dân là linh đạo, là con đường một giáo dân phải đi, để đến với Thiên Chúa. Tu sĩ Đaminh theo con đường thánh Đaminh đi, qua tu luật và cách sống, để đến với Thiên Chúa, để nên thánh. Tương tự vậy, tu sĩ Phanxicô theo linh đạo Phanxicô để nên thánh, v.v. Thế giáo dân đi theo con đường nào? Đâu là nét đặc trưng của linh đạo giáo dân? Đâu là những nét đặc trưng mà giáo dân sống trong cuộc sống thường ngày để nên thánh, để đến với Thiên Chúa?

Công đồng chung Vaticanô II nói với chúng ta: “Nền linh đạo giáo dân phải mang những nét riêng biệt tùy theo từng bậc sống như hôn nhân và gia đình, độc thân hay góa bụa, tùy theo tình trạng sức khỏe, tùy theo từng lãnh vực hoạt động nghề nghiệp và xã hội. Như vậy, mỗi người phải không ngừng phát triển những đức tính và tài năng thích hợp với từng hoàn cảnh sống, và biết tận dụng những ân huệ Chúa Thánh Thần ban riêng cho mỗi người” (AA, 4).

Linh đạo giáo dân rất đa dạng và phong phú, bởi vì “ơn gọi” giáo dân gồm nhiều thành phần (gia đình, độc thân, độc thân dâng hiến) với nhiều nghề nghiệp, thuộc nhiều tầng lớp xã hội (bình dân, trí thức), với những thành phần khác nhau (giàu, nghèo, trung lưu). Mỗi người, mỗi thành phần, tầng lớp xã hội, nghề nghiệp, v.v… đều có đường lối thiêng liêng và tông đồ khác nhau để đến với Thiên Chúa[3].

III. NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA LINH ĐẠO GIÁO DÂN

Giáo sĩ, tu sĩ, hay giáo dân, đều là Kitô hữu: những người tin Đức Giêsu là Thiên Chúa và lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh và cộng tác với Đức Giêsu cứu độ con người.

1. Hãy Là Thánh Vì Ta Là Thánh (ơn gọi của mọi Kitô hữu)

(Lv 19:2; LG, 39-42; CL, 16-17)

Mọi thành phần dân Do Thái đều được mời gọi nên thánh. Và như vậy, mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh.

Lêvi 19: 1 Yavê phán với Môsê rằng: 2 Hãy bảo toàn thể cộng đồng con cái Israel và nói với chúng: “Hãy là thánh, vì Ta là Thánh, Ta, Yavê Thiên Chúa của các ngươi.” (bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn)

“Ý muốn của Thiên Chúa là muốn là anh em nên thánh” (1Tx 4:3; Eph 1:4).

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành (Mt 5:48). Chúng ta không có đích nào khác hơn là trở nên giống như Thiên Chúa, Cha của chúng ta.

Thánh Phaolô cũng nói: “anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Đức Kitô” (1Cor 11:1). Nên thánh, là trở nên giống Đức Giêsu. Chúng ta có người mẫu tuyệt vời, đó là Đức Giêsu.

Sống yêu thương như Chúa dạy, đó là nên thánh: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12; 13:34-35).

Giáo dân nên thánh giữa đời, nên thánh nơi trần gian, đó là nét đặc trưng của linh đạo giáo dân (CL, 17).

2. Hãy Đi Làm Vườn Nho Cho Ta (sứ mạng của Kitô hữu)

Làm tông đồ, là bản chất của Kitô hữu. Không là Kitô hữu đích thực nếu không làm tông đồ.

“Phần các anh, các anh cũng đi làm vườn nho cho Ta” (Mt 20:4.7). “Ơn gọi làm Kitô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ” (AA, 2).

Huấn quyền Giáo Hội qua Công Đồng Vaticanô II và các tông huấn nhấn mạnh đến việc tông đồ rao giảng Phúc Âm, bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người, hoàn thiện cơ cấu xã hội nhằm phục vụ con người hữu hiệu hơn.

2.1. Rao giảng Phúc Âm

Làm tông đồ, là giúp con người nhận biết Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng. Kitô hữu giáo dân làm chứng không chỉ bằng lời nói nhưng chính yếu bằng chính đời sống yêu thương của mình đối với họ.

Nếu người ta tin biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, thì người ta sẽ biết Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng. Đích nhắm của việc tông đồ là loan báo Tin Mừng[4].

Kitô hữu phải truyền giáo, vì Chúa Giêsu đã sai gởi chúng ta. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20:19). “Hãy đi làm cho muôn dân thành môn đệ, rửa tội cho họ nhân danh Cha Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã dạy các con” (Mt 28:19).

2.2. Bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người

Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1:26-28). Con người có giá trị tuyệt đối vì Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, Đức Giêsu đã chết để cứu độ con người.

Giới răn nào trọng nhất? Yêu Chúa trên hết và yêu tha nhân như chính mình (Mc 12:28-34). Nếu ta nói ta yêu Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là nói dối (1Ga 4:20-21).

Bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người, là bổn phận của mọi Kitô hữu, đặc biệt Kitô hữu giáo dân[5]. Bởi vì nếu không bảo vệ mạng sống, phẩm giá con người, thì không yêu thương con người đích thực. Giới răn yêu thương là giới răn nền tảng của Kitô giáo: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34-35; 15:12).

2.3. Kiện toàn cơ chế xã hội phục vụ con người

Đôi khi có cơ cấu xã hội bất công. Vì thế, Kitô hữu cần tham dự và các hoạt động xã hội để hoàn thiện hóa cơ cấu xã hội nhằm bảo vệ giá trị và thăng tiến phẩm giá con người[6].

Giáo sĩ không được làm chính trị (GL, 285§3; 287§2), nhưng không như vậy với Kitô hữu giáo dân. Tham gia chính trị là ơn gọi của Kitô hữu giáo dân[7].

3. Ở trong thế gian

“Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian” (Ga 17:11.18). Sống trong thế gian, là sống trong gia đình, trong xã hội, với những công việc mình phải chu toàn, v.v. Kitô hữu giáo dân nên thánh và làm chứng cho Thiên Chúa nơi trần gian, môi trường sống của mình.

Tính trần thế là nét riêng biệt và đặc thù của Kitô hữu giáo dân[8].

Một tu sĩ dòng kín nên thánh trong tu viện của mình. Một giáo dân nên thánh ở giữa đời, nơi gia đình, giữa xã hội, nghề nghiệp mà mình phải chu toàn. Trần thế là môi trường sống và nên thánh của Kitô hữu giáo dân[9]. Kitô hữu giáo dân được mời gọi làm tất cả trong tình yêu (AA, 8).

Kitô hữu giáo dân không chỉ giúp người ta tin vào Đức Kitô bằng chứng tá đời sống nhưng còn bằng cả lời nói nữa[10].

3.1. Gia đình (CL, 40)

Gia đình là nguồn gốc và nền tảng của xã hội loài người (AA, 11). Bí tích hôn phối bất khả tiêu hủy: “sự gì Thiên Chúa kết hợp thì loài người không được phân ly” (Mt 19:6).

Gia đình phải là nơi mỗi người diễn tả tình yêu của Thiên Chúa cho các thành viên. Vợ chồng đại diện Thiên Chúa yêu thương người bạn đời của mình. Cha mẹ cộng tác với Thiên Chúa cho con cái ra đời, và đại diện Thiên Chúa yêu thương dạy dỗ con cái.

Mỗi thành viên nên thánh qua việc chu toàn bổn phận và yêu thương những người trong gia đình.

3.2. Giáo xứ (CL, 26-27)

“Mặc dù có chiều kích phổ quát, sự hiệp thông Giáo Hội được diễn tả cách trực tiếp và hữu hình nhất nơi giáo xứ” (CL, 26).

“Giáo dân ngày càng phải xác tín mạnh mẽ hơn về ý nghĩa của việc dấn thân hoạt động tông đồ trong giáo xứ của mình” (CL, 27).

Kitô hữu giáo dân tham gia sinh hoạt nơi cộng đoàn Giáo Hội: một cách cụ thể nơi giáo xứ với các đoàn thể, nơi giáo phận, và cả liên giáo phận, cùng Giáo Hội hoàn vũ (AA, 10).

3.3. Nghề nghiệp

Làm việc là bổn phận của con người (2Tx 3:10-12). Mỗi người phải làm để kiếm sống, và rồi có thể giúp đỡ người khác khi có thể.

Khi làm việc phục vụ, mỗi người phát triển tài năng Thiên Chúa ban cho mình. Chúng ta sẽ triển nở và hạnh phúc khi lao động và phục vụ.

Qua cung cách làm việc, chúng ta cũng có thể loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Chúa cho đồng nghiệp, cho những người chúng ta phục vụ.

3.4. Xã hội

Sứ mạng của Kitô hữu giáo dân cũng là giúp cải tổ hay kiện toàn cơ chế xã hội để phục vụ con người, giúp con người có thể sống triển nở như Thiên Chúa muốn (Ga 10:10).

“Chắc chắn ý định của Thiên Chúa về thế giới là muốn con người đồng tâm kiến tạo và không ngừng hoàn thiện hóa các thực tại trần thế …. Giáo dân phải đảm nhận việc canh tân trật tự trần thế như là phận vụ của riêng mình” (AA, 7).

Theo Công Đồng Vaticanô II, làm tông đồ là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tín hữu không phân biệt giáo sĩ hay giáo dân; như thế các giáo sĩ và các tu sĩ phải quý trọng hoạt động tông đồ giáo dân[11].

Thánh Công Đồng Vaticanô II còn lưu ý: “Hoạt động tông đồ phải hướng tới toàn thể những người đang cư ngụ trong địa bàn và không từ chối bất cứ việc gì có thể mang lại lợi ích thiêng liêng hay vật chất cho mọi người” (AA, 13).

Việc tông đồ giáo dân rất thiết yếu và quan trọng, nên Kitô hữu giáo dân cần được huấn luyện về nhiều phương diện[12], và phải được huấn luyện ngay từ khi còn nhỏ[13].

WHĐ (7.10.2020)