Bản dịch Việt Ngữ của Vũ Văn An
Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới năm 2021 của Đức Phanxicô đã được Phòng Báo chí của Tòa thánh phát đi ngày 17 tháng 12 vừa qua. Sau đây là nội dung thông điệp:
Văn hóa quan tâm, đường dẫn tới hòa bình
1. Vào buổi bình minh của năm mới, tôi xin gửi lời chào thân ái tới các Nguyên thủ quốc gia và Chính phủ, các nhà lãnh đạo các Tổ chức quốc tế, các vị lãnh đạo tinh thần và tín hữu các tôn giáo khác nhau và các người thiện chí nam nữ. Với mọi người, tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất của tôi là năm tới sẽ giúp nhân loại tiến hơn nữa trên con đường huynh đệ, công lý và hòa bình giữa các cá nhân, cộng đồng, dân tộc và quốc gia.
Năm 2020 được đánh dấu bằng cuộc khủng hoảng sức khỏe Covid-19 hết sức lớn lao, một cuộc khủng hoảng đã trở thành một hiện tượng hoàn cầu xuyên biên giới, làm trầm trọng thêm các cuộc khủng hoảng vốn có liên quan sâu sắc với nhau như khí hậu, lương thực, kinh tế và di dân, và gây ra nhiều đau khổ và gian khó. Tôi đặc biệt nghĩ đến tất cả những người mất các thành viên trong gia đình hoặc những người thân yêu, và tất cả những người bị mất việc làm. Tôi cũng nghĩ đến các bác sĩ và y tá, dược sĩ, nhà nghiên cứu, tình nguyện viên, tuyên úy và nhân viên các bệnh viện và trung tâm chăm sóc sức khỏe. Họ đã và đang tiếp tục thực hiện các hy sinh to lớn để hiện diện với người bệnh, giảm bớt đau khổ và cứu sống họ; thực vậy, nhiều người trong số họ đã chết trong diễn trình này. Để tỏ lòng kính trọng đối với họ, tôi xin lặp lại lời kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị và các khu vực tư không tiếc một cố gắng nào để bảo đảm quyền được tiêm chủng vắc xin Covid-19 và các kỹ thuật chủ yếu cần thiết cho việc chăm sóc người bệnh, người nghèo và những người dễ bị tổn thương nhất [1].
Đáng buồn khi phải nói rằng, bên cạnh tất cả những chứng từ yêu thương và liên đới này, chúng ta cũng đã chứng kiến sự gia tăng trong nhiều hình thức khác nhau của chủ nghĩa duy dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bài ngoại, và các cuộc chiến tranh và xung đột chỉ để lại chết chóc và hủy diệt đàng sau chúng.
Những sự kiện này và những sự kiện khác, vốn đánh dấu con đường của nhân loại trong năm qua, đã dạy chúng ta rằng việc quan tâm đến nhau và đến sáng thế quan trọng biết dường nào trong các cố gắng của chúng ta nhằm xây dựng một xã hội huynh đệ hơn. Đó là lý do tại sao tôi đã chọn làm tiêu đề của Thông điệp năm nay, Văn hóa Quan tâm như con đường dẫn đến hòa bình. Văn hóa quan tâm như một cách chống lại văn hóa dửng dưng, lãng phí và đối đầu rất thịnh hành thời ta.
2. Thiên Chúa Tạo Hóa, nguồn ơn gọi con người chúng ta chăm sóc
Nhiều truyền thống tôn giáo đã kể về nguồn gốc của con người và mối liên hệ của họ với Đấng Tạo Hóa, với thiên nhiên và với đồng loại nam nữ của họ. Trong Kinh thánh, Sách Sáng thế cho thấy ngay từ những trang đầu tiên tầm quan trọng của việc chăm sóc hoặc bảo vệ trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nó làm nổi bật mối liên hệ giữa con người (‘adam) và trái đất (‘ adamah), và giữa chúng ta với tư cách là anh chị em. Theo trình thuật của Kinh thánh về sự sáng thế, Thiên Chúa giao khu vườn “trồng ở Êđen” (xem St 2: 8) cho Ađam chăm sóc, để “canh tác và gìn giữ” (St 2:15). Điều này hàm nghĩa phải làm cho trái đất trở nên có năng suất, đồng thời bảo vệ nó và duy trì khả năng hỗ trợ sự sống của nó [2]. Các động từ “canh tác” và “gìn giữ” mô tả mối liên hệ của Ađam với ngôi nhà vườn của ông, nhưng cả niềm tín thác mà Thiên Chúa đã đặt nơi ông bằng cách biến ông thành chủ nhân ông và người bảo vệ mọi tạo vật.
Sự ra đời của Cain và Abel bắt đầu lịch sử anh chị em, mà mối liên hệ của họ – ngay cả khi Cain hiểu sai – cũng được hiểu theo nghĩa bảo vệ hoặc “giữ gìn”. Sau khi giết em trai mình là Abel, Cain trả lời câu hỏi của Thiên Chúa bằng câu: “Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu?” (St 4: 9) [3]. Giống như tất cả chúng ta, Cain được gọi là “người canh giữ em trai mình”. “Những câu chuyện cổ, đầy tính biểu tượng này, làm chứng cho niềm xác tín được chúng ta ngày nay chia sẻ, đó là: mọi sự được liên kết với nhau, và sự quan tâm thực sự tới cuộc sống của chúng ta và mối liên hệ của chúng ta với thiên nhiên là điều không thể tách rời khỏi tình huynh đệ, công lý và lòng trung thành với người khác” [ 4].
3 Thiên Chúa Tạo Hóa, kiểu mẫu của sự quan tâm
Sách Thánh trình bày Thiên Chúa không chỉ là Đấng Tạo Hóa, mà còn là Đấng quan tâm đến các tạo vật của Người, nhất là Ađam, Evà và con cái của họ. Mặc dù bị nguyền rủa vì tội đã phạm, Cain vẫn được Đấng Tạo Hóa ban cho dấu hiệu bảo vệ, để mạng sống hắn được dung thứ (xem St 4:15). Trong khi xác nhận phẩm giá bất khả xâm phạm của con người được tạo ra theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa, đây cũng là dấu hiệu cho thấy kế hoạch của Thiên Chúa muốn bảo tồn sự hòa điệu nơi sáng thế của Người, vì “hòa bình và bạo lực không thể tồn tại với nhau” [5].
Việc quan tâm tới sáng thế, vốn nằm ở tâm điểm của việc định ra ngày Sabát, một việc, ngoài việc sắp xếp việc thờ phượng Thiên Chúa ra, còn nhằm mục đích khôi phục trật tự xã hội và quan tâm đến người nghèo (xem St 1: 1-3; Lv 25: 4). Việc cử hành Năm Thánh vào mọi năm sabát thứ bẩy cung cấp thời gian nghỉ ngơi cho đất đai, cho nô lệ và cho những người mắc nợ. Trong năm hồng ân đó, những người có nhu cầu lớn nhất được quan tâm và dành cho một cơ hội mới trong cuộc sống, để không còn người nghèo trong dân nữa (xem Đnl 15: 4).
Trong truyền thống tiên tri, cái hiểu trong Kinh thánh về công lý tìm được biểu thức cao nhất trong cách một cộng đồng đối xử với những thành viên yếu nhất của họ. Đặc biệt, Amốt (xem 2: 6-8; 8) và Isaia (xem 58), kiên quyết đòi hỏi công lý cho người nghèo, những người, trong tình trạng dễ bị tổn thương và bất lực của họ, đã kêu lên và được Thiên Chúa khứng nghe, Đấng luôn trông nom họ (xem Tv 34: 7; 113: 7-8).
4. Quan tâm trong thừa tác vụ của Chúa Giêsu
Cuộc đời và thừa tác vụ của Chúa Giêsu trình bầy với ta việc mặc khải tối cao tình yêu của Chúa Cha dành cho nhân loại (x. Ga 3:16). Trong hội đường ở Nadarét, Chúa Giêsu cho thấy Người được Chúa thánh hiến và “được sai đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc 4,18). Những hành động thiên sai này, vốn được liên kết với Năm Thánh, làm chứng hùng hồn cho sứ mệnh Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Trong lòng thương xót của Người, Chúa Kitô đã đến gần những người đau yếu về thể xác và tinh thần, và chữa lành cho họ; Người đã ân xá tội nhân và ban cho họ sự sống mới. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành chăm sóc đoàn chiên của Người (x. Ga 10: 11-18; Edk 34: 1-31). Người là người Samaritanô nhân hậu, cúi xuống cứu giúp người bị thương, băng bó các vết thương của họ và chăm sóc họ (x. Lc 10:30-37).
Ở đỉnh cao của sứ mệnh, Chúa Giêsu đã đưa ra bằng chứng cuối cùng về sự chăm sóc của Người dành cho chúng ta bằng cách tự hiến mình trên thập giá để giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết. Bằng việc hiến tế sự sống của Người, Người đã mở ra cho chúng ta con đường tình yêu. Người nói với mỗi người chúng ta: “Hãy theo Ta; hãy đi và hãy làm như vậy” (x. Lc 10:37).
5. Văn hóa quan tâm trong đời sống những người theo Chúa Giêsu
Các việc thương xót về tinh thần và thể xác nằm ở tâm điểm đức bác ái như đã được Giáo hội sơ khai thực hành. Thế hệ Kitô hữu đầu tiên đã chia sẻ những gì họ có, để không ai trong số họ phải túng thiếu (xem Cv 4: 34-35). Họ cố gắng biến cộng đồng của họ thành một ngôi nhà biết nghinh đón, quan tâm đến mọi nhu cầu của con người và sẵn sàng chăm sóc những người cần nhất. Họ có thói quen tự ý dâng cúng để nuôi người nghèo, chôn cất người chết và chăm sóc trẻ mồ côi, người già và nạn nhân các thảm họa như đắm tàu. Vào thời sau đó, khi lòng quảng đại của các Kitô hữu đã mất đi sức sốt sắng ban đầu, một số Giáo phụ khẳng định rằng tài sản đã được Thiên Chúa dự liệu cho ích chung. Đối với Thánh Ambrôsiô, “thiên nhiên tuôn đổ mọi sự mọi người sử dụng chung… và do đó tạo ra quyền chung cho tất cả mọi người, nhưng lòng tham đã biến nó thành quyền chỉ dành cho một số ít người” [6]. Sau những cuộc bách hại trong những thế kỷ đầu tiên, Giáo hội đã sử dụng quyền tự do mới tìm thấy của mình để truyền cảm hứng cho xã hội và nền văn hóa của nó. “Nhu cầu của thời đại đòi hỏi những nỗ lực mới trong việc phục vụ bác ái Kitô giáo. Lịch sử ghi lại vô số thí dụ về những việc thương xót thực tiễn … Việc làm của Giáo hội nơi những người nghèo phần lớn đã được tổ chức rất cao. Từ đó, đã nảy sinh nhiều cơ sở để cứu trợ mọi nhu cầu của con người: bệnh viện, nhà dành cho người nghèo, trại mồ côi, nhà giữ trẻ bị bỏ rơi, nơi trú ẩn cho du khách… ”[7].
6. Các nguyên tắc trong học thuyết xã hội của Giáo hội như căn bản cho nền văn hóa quan tâm
Nguồn gốc Tác vụ phục dịch (Diakonia) của Giáo hội, được phong phú hóa nhờ suy tư của các Giáo phụ và được chấn hưng qua nhiều thế kỷ nhờ lòng bác ái tích cực của nhiều nhân chứng sáng chói đối với đức tin, đã trở thành trái tim sống động trong học thuyết xã hội của Giáo hội. Học thuyết này được cung ứng cho tất cả những người có thiện chí như một gia bảo quý giá gồm các nguyên tắc, tiêu chuẩn và đề xuất có thể dùng như một “văn phạm” của việc quan tâm: cam kết cổ vũ phẩm giá của mỗi nhân vị, liên đới với người nghèo và người dễ bị tổn thương, theo đuổi ích chung và quan tâm đến việc bảo vệ sáng thế.
Quan tâm như việc cổ vũ phẩm giá và quyền lợi của mỗi người
“Chính khái niệm về con người, một khái niệm bắt nguồn và phát triển trong Kitô giáo, đã cổ vũ việc theo đuổi sự phát triển toàn diện con người. Con người luôn hàm nghĩa mối liên hệ, không phải chủ nghĩa cá nhân; nó khẳng định việc bao gồm, chứ không loại trừ, phẩm giá độc nhất và bất khả xâm phạm, chứ không bóc lột” [8]. Mỗi nhân vị là một mục đích trong chính họ, chứ không bao giờ chỉ là một phương tiện để được trân quí vì sự hữu ích của họ. Con người được tạo ra để sống với nhau trong gia đình, cộng đồng và xã hội, nơi mọi người đều bình đẳng về phẩm giá. Nhân quyền dẫn khởi từ phẩm giá này, cũng như các bổn phận của con người, như trách nhiệm nghinh đón và trợ giúp người nghèo, người bệnh tật, người bị loại trừ, mọi người “hàng xóm gần hay xa trong không gian và thời gian” của chúng ta (9).
Quan tâm đến lợi ích chung
Mọi khía cạnh của đời sống xã hội, chính trị và kinh tế đều đạt được mục đích trọn vẹn nhất khi được đặt vào việc phục vụ ích chung, hay nói cách khác “tổng số các điều kiện xã hội cho phép người ta, như các nhóm hay như các cá nhân, đạt được sự thành toàn của họ một cách trọn vẹn và dễ dàng hơn” [10]. Do đó, các kế hoạch và dự án của chúng ta phải luôn tính đến hiệu quả của chúng đối với toàn thể gia đình nhân loại, và xem xét các hậu quả của chúng đối với các thế hệ hiện tại và sắp tới. Đại dịch Covid-19 đã cho chúng ta thấy sự thật và đúng lúc của sự kiện này. Đứng trước đại dịch, “chúng ta nhận ra rằng chúng ta đang ở trên cùng một con thuyền, tất cả chúng ta đều mong manh và mất phương hướng, nhưng đồng thời quan trọng và cần thiết, tất cả chúng ta đều được kêu gọi cùng nhau chèo chống” [11] vì “không một ai tự mình đạt đến sự cứu rỗi” [12] và không nhà nước nào có thể bảo đảm ích chung của dân chúng mình nếu nó mãi cô lập [13].
Quan tâm bằng liên đới
Tình liên đới cụ thể nói lên tình yêu thương của chúng ta đối với người khác, không phải như một tình cảm mơ hồ mà là một “quyết tâm vững chắc và kiên trì dấn thân vì ích chung; nghĩa là vì lợi ích của mọi người và của mỗi cá nhân, vì tất cả chúng ta thực sự có trách nhiệm với mọi người” [14]. Tình liên đới giúp chúng ta coi những người khác – bất chấp như những cá nhân hay nói rộng hơn như các dân tộc hay quốc gia – không chỉ là số liệu thống kê, hay như một phương tiện để được sử dụng và sau đó bị vứt đi một khi không còn hữu ích nữa, mà là như những người hàng xóm, những người bạn đồng hành trên hành trình của chúng ta, được kêu gọi như chính chúng ta để tham dự bàn tiệc sự sống mà mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi như nhau.
Chăm sóc và bảo vệ sáng thế
Thông điệp Laudato Si ’hoàn toàn ý thức rằng mọi tạo vật đều được nối kết với nhau. Nó cũng nhấn mạnh nhu cầu của chúng ta muốn lắng nghe tiếng kêu cứu của người nghèo, đồng thời, tiếng kêu cứu của sáng thế. Đến lượt nó, việc lắng nghe liên tục và chú ý dẫn đến việc chăm sóc hữu hiệu cho trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta, và cho những anh chị em đang gặp khó khăn. Ở đây, một lần nữa tôi muốn nhấn mãnh rằng “cảm thức hiệp thông sâu sắc với toàn bộ thiên nhiên sẽ không thể chân chính nếu trái tim chúng ta thiếu sự âu yếm, cảm thương và quan tâm đối với đồng loại nhân bản của chúng ta” [15]. “Hòa bình, công lý và việc quan tâm tới sáng thế là ba vấn đề vốn có liên hệ qua lại với nhau, không thể tách rời để có thể nói tới một cách riêng lẻ, làm thế chúng ta có nguy cơ rơi vào chủ nghĩa duy giản lược” [16].
7. Chiếc la bàn chỉ con đường chung
Ở thời điểm bị thống trị bởi nền văn hóa lãng phí, đối diện với nhiều bất bình đẳng ngày càng gia tăng cả bên trong lẫn giữa các quốc gia [17], tôi xin kêu gọi các nhà lãnh đạo chính phủ và các các nhà lãnh đạo các tổ chức quốc tế, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, các khoa học gia, các nhà truyền thông và các nhà giáo dục, tiếp nhận các nguyên tắc này như một “la bàn”có khả năng chỉ hướng đi chung và bảo đảm “ một tương lai nhân ái hơn” [18] trong diễn trình hoàn cầu hóa. Điều này sẽ giúp chúng ta trân quí giá trị và phẩm giá của mọi người, cùng nhau hành động trong tình liên đới vì ích chung, và cứu trợ những người đang chịu cảnh đói nghèo, bệnh tật, nô dịch, xung đột có vũ trang và kỳ tghị. Tôi xin mọi người cầm trên tay chiếc la bàn này và trở thành nhân chứng tiên tri cho nền văn hóa quan tâm, nỗ lực để vượt qua nhiều bất bình đẳng xã hội đang hiện hữu. Điều này chỉ có thể diễn ra qua việc tham gia rộng rãi và có ý nghĩa của phụ nữ, trong gia đình và trong mọi lĩnh vực xã hội, chính trị và định chế.
Chiếc la bàn các nguyên tắc xã hội này, rất cần thiết cho sự phát triển của nền văn hóa quan tâm, cũng chỉ cho thấy các mối liên hệ giữa các quốc gia cần được gợi hứng bởi tình huynh đệ, bởi việc tôn trọng lẫn nhau, bởi tình liên đới và việc tuân thủ luật pháp quốc tế. Về phương diện này, chúng ta phải thừa nhận sự cần thiết phải bảo vệ và cổ vũ các nhân quyền căn bản, vốn có tính bất khả nhượng, phổ biến và không thể phân chia [19].
Cũng cấp bách tương tự là sự cần thiết phải tôn trọng luật nhân đạo, đặc biệt vào lúc này khi các cuộc xung đột và chiến tranh vẫn tiếp diễn không ngừng. Bi thảm thay, nhiều khu vực và cộng đồng không còn nhớ được thời gian họ từng được an ninh và hòa bình. Nhiều thành phố đã trở thành tâm điểm của mất an ninh: các công dân phải vật lộn để duy trì sinh hoạt bình thường của họ trước các cuộc tấn công bừa bãi bằng chất nổ, pháo binh và vũ khí nhỏ. Trẻ em không còn khả năng học tập. Đàn ông và đàn bà không thể làm việc để hỗ trợ gia đình họ. Nạn đói đang lan rộng ở những nơi mà trước đây nó chưa bao giờ được biết đến. Người ta đang bị buộc phải trốn chạy, bỏ lại không những nhà cửa mà cả lịch sử gia đình và cội nguồn văn hóa của họ.
Trong khi những xung đột như vậy có nhiều nguyên nhân, kết quả luôn giống nhau: hủy diệt và các cuộc khủng hoảng nhân đạo. Chúng ta cần dừng lại và tự hỏi điều gì đã khiến thế giới của chúng ta coi xung đột như một điều bình thường, và làm sao trái tim chúng ta có thể được hoán cải và cách suy nghĩ của chúng ta thay đổi, để hoạt động cho hòa bình thực sự trong tình liên đới và huynh đệ.
Biết bao nguồn lực đang được chi cho vũ khí, nhất là vũ khí hạt nhân [20], có thể được sử dụng cho các ưu tiên có ý nghĩa hơn như bảo đảm an toàn cho các cá nhân, cổ vũ hòa bình và phát triển toàn diện con người, chống nghèo đói và cung cấp việc chăm sóc sức khỏe. Các vấn đề hoàn cầu như đại dịch Covid-19 hiện nay và thay đổi khí hậu chỉ làm cho những thách thức này trở nên hiển nhiên hơn. Quả là một quyết định dũng cảm khi “thành lập ‘Quỹ hoàn cầu’ bằng số tiền chi cho vũ khí và các chi phí quân sự khác, nhằm xóa bỏ nạn đói vĩnh viễn và góp phần vào việc phát triển các nước nghèo nhất”! [21]
8. Giáo dục cho một nền văn hóa quan tâm
Cổ vũ nền văn hóa quan tâm đòi hỏi một diễn trình giáo dục. “La bàn” các nguyên tắc xã hội có thể tỏ ra hữu ích và đáng tin cậy trong nhiều bối cảnh khác nhau nhưng có liên hệ qua lại với nhau. Cho phép tôi đưa ra một số thí dụ:
– Giáo dục người ta quan tâm bắt đầu từ gia đình, hạt nhân tự nhiên và căn bản của xã hội, trong đó chúng ta học cách sống và liên hệ với người khác trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, các gia đình cần được trao quyền để thực hiện nhiệm vụ quan trọng và không thể thiếu này.
– Cùng với gia đình, các trường học và đại học – và ở một số khía cạnh, các phương tiện truyền thông – cũng có trách nhiệm giáo dục [22]. Họ được kêu gọi truyền lại một hệ thống giá trị dựa trên việc công nhận phẩm giá của mỗi người, mỗi cộng đồng ngôn ngữ, sắc tộc và tôn giáo và mỗi dân tộc, cũng như các quyền căn bản phát sinh từ sự công nhận đó. Giáo dục là một trong những cột trụ của một xã hội công bằng và huynh đệ hơn.
– Các tôn giáo nói chung và các nhà lãnh đạo tôn giáo nói riêng có thể đóng một vai trò không thể thiếu trong việc truyền lại cho tín hữu của họ và xã hội nói chung các giá trị liên đới, tôn trọng các dị biệt và quan tâm đến anh chị em đang gặp khó khăn của chúng ta. Ở đây, tôi nghĩ đến những lời đã phát biểu vào năm 1969 của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trước Quốc hội Uganda: “Đừng sợ Giáo hội; Giáo Hội tôn vinh các bạn, Giáo Hội giáo dục những công dân trung thực và trung thành cho các bạn, Giáo Hội không xúi giục các tranh chấp và chia rẽ, Giáo Hội tìm cách cổ vũ tự do lành mạnh, công bằng xã hội và hòa bình. Nếu Giáo Hội có bất cứ ưu tiên nào, thì ưu tiên đó dành cho người nghèo, cho việc giáo dục các em bé và người ta, cho việc chăm sóc những người đau khổ và bị bỏ rơi ” [23].
– Một lần nữa, tôi xin khuyến khích tất cả những người tham gia công vụ và trong các tổ chức quốc tế, cả chính phủ lẫn phi chính phủ, và tất cả những người khác đang tham gia nhiều cách vào các lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu, làm việc hướng tới mục tiêu có được “một nền giáo dục cởi mở và bao hàm nhiều hơn, bao gồm việc kiên nhẫn lắng nghe, đối thoại xây dựng và hiểu biết lẫn nhau nhiều hơn” [24]. Tôi hy vọng rằng lời kêu gọi này, đưa ra trong bối cảnh Hiệp ước Hoàn cầu về Giáo dục, sẽ được thừa nhận và chấp nhận rộng rãi.
9. Không thể có hòa bình nếu không có nền văn hóa quan tâm
Do đó, nền văn hóa quan tâm đòi hỏi một cam kết chung, có tính hỗ trợ và bao gồm để bảo vệ và cổ vũ phẩm giá và sự thiện của mọi người, một việc sẵn lòng biểu lộ mối quan tâm và cảm thương, làm việc để hòa giải và hàn gắn, cũng như thăng tiến việc tôn trọng và chấp nhận lẫn nhau. Như thế, nó đại diện cho một con đường ưu tuyển dẫn đến hòa bình. “Ở nhiều nơi trên thế giới, đang cần có những con đường hòa bình để hàn gắn các vết thương chưa lành” (25).
Vào thời điểm như thế này, khi con thuyền nhân loại, bị sóng bão của cuộc khủng hoảng hiện tại xô đẩy, đang vật lộn để tiến tới một chân trời thanh bình và thanh thản hơn, thì “bánh lái” phẩm giá con người và “la bàn” các nguyên tắc xã hội căn bản có thể giúp chúng ta cùng nhau lèo lái đúng hướng an toàn. Là các Kitô hữu, chúng ta nên luôn hướng về Đức Mẹ, Ngôi sao Biển và Mẹ niềm Hy vọng. Xin cho chúng ta cùng nhau làm việc tiến tới một chân trời mới của yêu thương và hòa bình, của tình huynh đệ và liên đới, của việc hỗ trợ và chấp nhận lẫn nhau. Xin cho chúng ta đừng bao giờ sa vào cơn cám dỗ coi thường người khác, nhất là những người túng thiếu nhất, và nhìn đi hướng khác [26]; thay vào đó, xin cho chúng ta hàng ngày cố gắng, một cách cụ thể và thiết thực, “hình thành một cộng đồng gồm các anh chị em biết chấp nhận và quan tâm lẫn nhau ” [27].
Từ Điện Vatican, ngày 8 tháng 12 năm 2020
Phanxicô