SỰ THÁNH THIỆN CỦA KI-TÔ HỮU HỆ TẠI ĐIỀU GÌ?


SỰ THÁNH THIỆN CỦA KI-TÔ HỮU HỆ TẠI ĐIỀU GÌ?

Aug. Trần Cao Khải

WHĐ (23.02.2021)Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta đã nói “Mỗi chúng ta phải nên một Giê-su”. Quả thật, đây là một câu nói ngắn gọn, nhưng rất súc tích và đầy ý nghĩa. Quả vậy, chúng ta chẳng những phải nên giống Chúa mà còn phải nên là một Giê-su khác, mỗi Ki-tô hữu là một “Alter Christus”. Chính Chúa đã mời gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 3,48); “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.” (Lc 6, 36)

Từ khi tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su Ki-tô qua và nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta trở nên một tạo vật mới, được gọi là Ki-tô hữu. Và ơn gọi Ki-tô hữu khẳng định “chúng ta là người tin theo Đức Ki-tô trong mọi sự. Đời ta là một đời tận tình nhất quyết kết hợp với Đức Ki-tô, đi theo và bắt chước Đức Ki-tô, Anh Cả, Vị Cứu Tinh, đồng thời là Chúa mọi người. Ki-tô hữu sống động bởi Đức Ki-tô. Đức Ki-tô là gương mẫu của họ về mọi phương diện, trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi gặp nguy hiểm cũng như lúc bị cám dỗ và trong lúc sầu khổ của giờ chết, Ki-tô hữu đều có thể nhìn lên Đức Ki-tô đã đi trước và dạy cho họ biết cách thức đi tới Thiên Chúa.”[1]

Do đó, việc noi gương Chúa Ki-tô để trở nên thánh thiện như Ngài kêu gọi đối với mỗi người Ki-tô hữu chúng ta là một bổn phận ưu tiên hàng đầu không thể miễn trừ cho bất kỳ một ai nếu chúng ta muốn được vào Nước Trời, muốn vĩnh viễn thuộc về Thiên Chúa, muốn được hưởng sự sống đời đời. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã phán: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh (Lv 19, 2). Đức Giê-su khi rao giảng về Tin Mừng Nước Thiên Chúa, cũng kêu gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).

Mặc dù trong đời sống tại thế này, mỗi người chúng ta chưa thành toàn, chưa phải là một thánh nhân, nhưng ít ra chúng ta cũng phải phản ánh được phần nào dung nhan thánh thiện của Chúa Giê-su như lời Chúa mời gọi: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (x. Mt 5, 14-16)

Như vậy, việc nên thánh của chúng ta theo ý Thiên Chúa là một đòi hỏi cấp bách, khẩn thiết. Đó cũng trở thành bổn phận và nhiệm vụ quan trọng mà mỗi tín hữu phải triệt để quan tâm thi hành.

Thực vậy, “Đời sống thánh thiện không dành riêng cho cá nhân hay cho cộng đoàn đặc biệt nào trong Giáo Hội. Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II (1962-1965) dành một chương về chủ đề thánh thiện (LG 39-42). Công Đồng nhấn mạnh đến sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa được Đức Giê-su diễn tả và Người trở nên mẫu gương cho con người trên bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Công Đồng nhấn mạnh tầm quan trọng của thánh thiện theo ‘đấng bậc mình’ và minh định: ‘Mọi Ki-tô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người (LG 11). Tất cả mọi người được mời gọi không ngừng hoán cải để ngày càng trở nên thánh thiện hơn.” [2]

Trong Tông Huấn Gaudete et Exsultate (Hãy Vui Mừng Hoan Hỷ) về ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày nay, ĐTC Phan-xi-cô đã viết như sau:

Để nên thánh, không nhất thiết cứ phải là giám mục, linh mục, hay tu sĩ. Chúng ta vẫn thường bị cám dỗ để nghĩ rằng, sự thánh thiện chỉ được dành riêng cho những người có khả năng tránh xa những công việc quen thuộc để dành nhiều thời gian cho việc cầu nguyện. Thực ra không phải như vậy. Tất cả chúng ta đều được kêu gọi nên thánh, bằng cách là chúng ta sống trong Đức Ái, và làm chứng trong cuộc sống hằng ngày của mình, ở bất cứ nơi nào chúng ta hiện diện.

Bạn là tu sĩ nam nữ? Hãy nên thánh bằng cách sống cuộc đời dâng hiến của mình với trọn niềm vui.

Bạn đã lập gia đình? Hãy nên thánh bằng cách yêu thương và chăm sóc chồng hay vợ mình như Chúa Giê-su đã thực hiện cho Giáo hội.

Bạn là một công nhân? Hãy nên thánh bằng cách thực hiện công việc của mình trong sự phục vụ những người anh chị em với sự ngay thực và với kiến thức chuyên môn.

Bạn là cha, là mẹ, là ông hay là bà? Hãy nên thánh, bằng cách dưỡng dục con cái mình trong sự kiên nhẫn để chúng noi gương Chúa Giê-su.

Bạn đang mang một trách nhiệm? Hãy nên thánh bằng cách chiến đấu cho niềm hạnh phúc chung và khước từ những mối quan tâm riêng của bạn.” (số 14) [3]

Trở lại vấn đề đã nêu trên, chúng ta tự hỏi: Sự thánh thiện của người Ki-tô hữu hệ tại điều gì? Hay nói cách khác: Làm sao để biết một người thánh thiện hay không?

Đây là một câu hỏi khá phổ biến nhưng đối với nhiều người thì lại không dễ trả lời chính xác. Bởi có lẽ phần đông trong chúng ta thường nghĩ: một người thánh thiện là người hiền lành, ngoan ngoãn, siêng đi nhà thờ, năng đọc kinh, năng xưng tội và rước lễ thường xuyên, đi đứng thì chu chu chắm chắm, không dám nhìn ngang, liếc dọc vv… Nghĩ như vậy, tức là chúng ta chỉ nhìn theo vẻ bề ngoài mà chưa nhìn sâu xa đến toàn bộ con người và cuộc sống của họ. Đọc sách hạnh các thánh, chúng ta sẽ nhận ra nơi các vị sống thánh giữa đời một tấm gương sáng chói về một đức tin sâu xa, một tấm lòng khiêm tốn thẳm sâu và một đức ái bao la tuyệt vời. Như trường hợp của cha thánh Gio-an Ma-ri-a Vianney, thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, Mẹ thánh Tê-rê-xa thành Calcutta, Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II v.v…

Ngày Chúa nhật 20-2-2011, ĐTC Phan-xi-cô đã chia sẻ một bài huấn từ ngắn về chủ đề “Hãy nên hoàn thiện” đề cập đến điều thiết yếu của tất cả và từng người Kitô hữu, đó là trở nên con cái Thiên Chúa.[4] Trong bài chia sẻ này, ĐTC đã nhấn mạnh:

Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm để trở nên người thân cận với chúng ta và tỏ lộ tình yêu vô tận cho chúng ta; nếu chúng ta lắng nghe lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta lại tìm thấy lời mời gọi trên đây với cùng một mức độ mãnh liệt và táo bạo, Ngài nói: ‘Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện’ (Mt 5,48).

Ai có thể trở nên hoàn thiện? Sự hoàn thiện của chúng ta là sống lòng khiêm nhường như con cái Thiên Chúa và thi hành thánh ý của Người cách cụ thể. Thánh Ci-pri-a-nô từng viết: ‘Cách hành xử của con cái Thiên Chúa phải tương hợp với tình phụ tử của Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa được tôn vinh và ca tụng từ những việc tốt lành của con người (De zelo et livore, 15: CCL 3a, 83).’ Như thế, con người có thể trở nên hoàn thiện khi sống tròn đầy cương vị làm con cái Thiên Chúa, ngoài ra chúng ta còn có một mẫu gương cụ thể của Người làm Con Thiên Chúa.

Chúng ta có thể bắt chước Chúa Giêsu như thế nào? Chính Chúa Giêsu đã nói: ‘Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời’ (Mt 5, 44-45). Ai đón nhận Thiên Chúa trong đời sống mình và yêu mến Người hết lòng, người ấy có khả năng bắt đầu một chặng đường mới, có thể chu toàn thánh ý Thiên Chúa hầu hiện thực hoá một hiện hữu mới được nuôi sống bởi tình yêu và hướng đến sự vĩnh cửu. Thánh Phaolô tông đồ nói thêm rằng: ‘Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?’ (1Cr 3,16). Nếu chúng ta thực sự ý thức được thực tế này, và đời sống chúng ta được xây dựng cách vững chắc trên nền tảng ấy, khi đó chứng tá của chúng ta trở nên rạng ngời, hùng hồn và hữu hiệu.

Như vậy sự thánh thiện của Ki-tô hữu không tùy thuộc vào bề ngoài như vóc dáng, ngoại hình, sức khỏe, hay vào những tài năng, kiến thức, sở trường, bằng cấp, địa vị, chức quyền này nọ, mà trái lại căn cứ trên phẩm chất đạo đức qua các nhân đức đối thần, dõi theo con người và cuộc sống của Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa làm người, như thánh Phao-lô đã nói: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Đức Kitô” (1Cr 11, 1).

Do đó có thể khẳng định rằng, “các thánh là người có thể trở thành ‘những mẫu gương trung gian’; với đời sống các ngài, với những cuộc chiến đấu của các ngài và với sự ngoan ngoãn của các ngài đối với Thánh Thần, các ngài dạy chúng ta cách thế bước theo và bắt chước Chúa Giêsu. Do mối dây liên kết giữa các ngài với Chúa Giêsu, các thánh xứng đáng được nhìn nhận là những mẫu gương.” [5]

Noi gương thánh của Chúa Giê-su, các thánh tỏ ra cho ta thấy hai đặc điểm tiêu biểu sau đây: 1- Các ngài hết lòng yêu kính Cha trên trời đồng thời hết lòng yêu thương anh em như chính mình; 2- Các ngài tích cực sống theo tinh thần Tám Mối Phúc.

1.- Các thánh là những người hết lòng yêu kính Cha trên trời và hết sức yêu thương anh em như chính mình

Các thánh trước hết là những người thấm nhuần lời dạy của Chúa Giê-su về giới luật yêu thương, tức là lòng Mến Ki-tô giáo (Agapê/ Thuần ái). Đó là tình mến Chúa song song với lòng yêu người. 

“Lòng Mến Agapê là tiếng Hy Lạp được Thánh Kinh và văn chương Ki-tô giáo sử dụng để diễn tả tình yêu mang tính thần linh, hoàn toàn nhưng không, vô vị lợi và dám hy sinh chính mình cho người mình yêu. Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể yêu bằng tình yêu này (x. Ga 15, 9; 14, 31; Ga 3, 16).

“Tuy nhiên, con người cũng được mời gọi và ban cho khả năng yêu thương như thế (x. Ga 21, 15-19; Ga 5, 22). Đây là tình yêu của những ai yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (x. Dnl 6, 5-6; Mt 22, 37. 39) và không chỉ “yêu người như chính mình”, nhưng còn yêu như Chúa Giê-su đã yêu họ (x. Ga 13, 34).” [6]

Trong Tin Mừng thánh Mat-thêu, Chúa đã tuyên bố điều răn trọng nhất: “Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: ‘Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?’ Đức Giê-su đáp: ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy. ”(Mt 22, 34-40), (cf. Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28)

Có thể nói, trong suốt cuộc đời tại thế của Ngài, Đức Giê-su với tình yêu mến thẳm sâu, lúc nào cũng nghĩ về Cha, hiệp thông với Cha, liên kết với Cha, hành động vì Cha và nói cho người ta biết về Cha mình. Đó là mạc khải quan trọng vào bậc nhất của Tân Ước. Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô, Người cũng là Cha của mọi tín hữu chúng ta. Chính Chúa đã đích thân dạy chúng ta Kinh Lạy Cha, để chúng ta hằng ngày được cầu nguyện với Cha mình.

Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này: Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con; xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.” (Mt 6, 9-14)

Chúng ta cũng biết rằng: “Mạc khải lớn nhất của Chúa Giêsu là Thiên Chúa Cha có một người con duy nhất cũng là Thiên Chúa. Người con ấy chính là người. Những người khác, tức chúng ta, là con trai con gái của Thiên Chúa tình yêu. Mạc khải quan trọng nhất này được viết trong các sách Phúc Âm.

Những câu truyện thời thơ ấu của Chúa Giêsu trong Phúc Âm theo Thánh Marcô và Thánh Luca cho chúng ta thấy niềm tin của Hội Thánh vào nguồn gốc Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Ngay khi bắt đầu đi rao giảng, khi Người chịu phép rửa của Thánh Gioan thì “Trời mở ra và Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu, và một tiếng nói từ trời: Con là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”(Mt 3,17). Và trong lời cầu nguyện cuối cùng trước khi chịu chết, lời nguyện tế hiến, Chúa Giêsu tóm kết công việc của Người là công việc của người Con của Chúa Cha (x. Ga 17,1-5)

“Chúa Giêsu đã gọi Chúa Cha bằng tiếng gọi rất thân thương: ‘Abba! Cha ơi!’(Mc 14,36). Người nói rằng Người rất đỗi thân thiết với Chúa Cha đến nỗi chỉ một mình Người biết và mạc khải Cha: ‘Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi và không ai biết rõ người Con trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.” (Mt 11, 27) [7]

Một người sống thánh thiện là một người luôn luôn sống tình con thảo đối với Cha trên trời với lòng yêu mến hết lòng, hết sức, hết trí khôn. Một sự thông hiệp sâu xa và bền chặt đến nỗi không gì có thể tách lìa họ khỏi lòng mến đối với Thiên Chúa Cha. Như ước nguyện mà Chúa Giê-su đã từng bày tỏ: “…như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta (x. Ga 17, 21). Chúng ta “ở trong Cha” vì chúng ta thuộc về Người, là con cái của Người, chúng ta không ngừng cất tiếng nguyện xin “Lạy Cha chúng con ở trên trời!”.

Các thánh cũng là những người luôn biết kết hợp giữa đời sống cầu nguyện và đời sống hoạt động. Có thể nói các ngài cầu nguyện trong khi hoạt động và hoạt động nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện. Cũng chính nhờ đời sống cầu nguyện đó mà các ngài luôn vâng phục thánh ý Cha và sẵn sàng thi hành những gì Cha muốn. “Xin ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời…”. Như ĐTC Phan-xi-cô đã nói ở trên: Sự hoàn thiện của chúng ta là sống lòng khiêm nhường như con cái Thiên Chúa và thi hành thánh ý của Người cách cụ thể.

Song song với đời sống kết hiệp với Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót, các thánh luôn luôn hướng trái tim mình về người anh em. Họ không thể yêu mến tôn kính Cha mà không yêu thương anh em như chính mình.

Thánh Gio-an đã nêu kinh nghiệm này, “Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình.” (1Ga 4, 19-21)

Các thánh là những người không yêu mến một cách hời hợt, bằng môi bằng miệng nhưng là qua sự dấn thân trọn vẹn với cả con người và cuộc sống mình. Mẹ Tê-rê-xa đã nói ngắn gọn thế này: “Cuộc sống nếu như không sống vì người khác thì đó không còn là cuộc sống nữa.” ĐTC Phan-xi-cô cũng đã nhắc nhở: “Tất cả chúng ta cần phải nhìn nhau với cặp mắt yêu thương của Đức Kitô, và phải học cách ôm lấy những người nghèo khổ, để cho họ thấy sự gần gũi, cảm tình và lòng yêu thương của chúng ta.

Trong bài ca Đức Mến (1Cr 13), thánh Phao-lô cũng đã đề cập đến tình yêu Agapê như là đỉnh cao của đời sống Ki-tô hữu. Ngài coi đó như con đường trổi vượt hơn cả. Con đường mà nhờ đó người tín hữu ra khỏi chính mình mà đến với tha nhân. “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được…” (1Cr 13, 4-8).

Thực vậy, đời sống của các thánh và của chúng ta dưới ánh sáng của mầu nhiệm Phục Sinh, phải là ngọn đèn sáng lan tỏa sự nồng ấm của lòng mến Ki-tô giáo. Như thánh Phao-lô đã khuyên nhủ các tín hữu Cô-lô-xê: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.” (Cl 3, 12-14).

Việc nên thánh sẽ giúp chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa một cách thâm sâu nhất, đồng thời cũng giúp ta gặp gỡ anh em mình một cách cụ thể, chân thực nhất. Thực vậy, khi thực thi lòng mến Chúa, yêu người một cách trọn hảo, chúng ta sẽ minh chứng việc chúng ta chu toàn bổn phận nên thánh của mình, đồng thời đó cũng được coi là bảo chứng chắc thực chúng ta thuộc về Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô.

2.- Các thánh là những người tích cực sống theo tinh thần của Tám mối phúc (hay Hiến chương Nước Trời)

Vào ngày thứ hai 9 tháng 6 năm 2014, tại nhà nguyện Santa Marta, ĐTC Phan-xi-cô đã có bài chia sẻ suy tư dựa vào Tin Mừng về những mối phúc thật, theo đó ngài đã mô tả các mối phúc như một “chương trình”, như “một giấy căn cước của một Kitô hữu”. Ngài nói: “Nếu anh chị em tự hỏi mình làm thế nào tôi có thể trở thành một Kitô hữu tốt, thì đây là câu trả lời của Chúa Giêsu, một câu trả lời dẫn đến một thái độ đi ngược lại não trạng con người ngày nay rất nhiều.” ĐTC tiếp tục quảng diễn từng mối phúc, như sau:

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó. Sự giàu có không cho chúng ta sự bảo đảm, trong thực tế khi trái tim quá đầy chật và tự mãn, nó không còn có chỗ cho Lời Chúa.

Phúc cho ai sầu khổ vì họ sẽ được ủi an. Thế giới cố thuyết phục để chúng ta tin rằng hạnh phúc, niềm vui và giải trí là những điều tốt nhất trong cuộc sống; và sẽ là bất hạnh khi chúng ta có những vấn đề về bệnh tật hoặc những nỗi đau trong gia đình. Thế giới không muốn đau khổ, nó thích lờ đi và che đậy hết những tình huống đớn đau. Chỉ có người dám nhìn thẳng vào sự vật, chỉ có những ai có con tim biết rơi lệ mới hiểu thế nào là hạnh phúc và sẽ được an ủi, sự an ủi của Chúa Giêsu, chứ không phải của thế gian.

Phúc thay ai hiền lành trong cái thế giới chồng chất các cuộc chiến, những lập luận hận thù. Chúa Giêsu nói: hãy nói không với chiến tranh, nói không với hận thù. Hãy sống hòa bình và hiền lành. Nếu anh chị em hiền lành trong cuộc sống, mọi người sẽ nghĩ rằng anh chị em không được khôn cho lắm. Cứ để họ nghĩ như thế đi. Nhưng anh chị em hiền lành là bởi vì với sự hiền lành này, anh chị em sẽ thừa hưởng trái đất.

Phúc cho những ai đói khát sự công chính. Thật là dễ dàng để băng hoại và đổ thừa rằng: đời mà! Bao nhiêu những bất công mà não trạng này đã gây ra; và có bao nhiêu người phải đau khổ vì những bất công ấy. Chúa Giêsu nói: “Phúc cho những ai đấu tranh chống lại sự bất công.”

Phúc thay ai có lòng thương xót vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Những người có lòng xót thương là những người tha thứ và hiểu những sai lầm của người khác. Chúa Giêsu đã không nói “phúc cho những ai tìm cách trả thù”. Phúc cho những ai tha thứ, cho những ai đầy lòng thương xót. Bởi vì chúng ta đều là một phần của một đội quân đông đảo những người đã từng được tha thứ! Chúng ta đã được thứ tha. Đó là lý do tại sao phúc thay cho những ai dấn bước trên con đường tha thứ.

Phúc thay ai có lòng thanh sạch, họ là những người có một trái tim tinh khiết đơn giản không bụi bẩn, một trái tim biết yêu một cách tinh khiết.

Phúc thay ai kiến tạo hòa bình. Nhưng thật đáng tiếc là trong chúng ta có cơ man những nhà hoạch định chiến tranh hay thủ phạm của sự hiểu lầm! Khi ta nghe một cái gì đó từ một người, và chỉ một giây sau đã quay sang đồn thổi cho người khác, mở rộng, thêm thắt thành những phiên bản khác… ta đang hình thành ra thế giới của tin đồn. Những người ngồi lê đôi mách là những người không thực hiện hòa bình, là kẻ thù của hòa bình. Họ không được chúc phúc.

Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính. Bao nhiêu người đã bị bách hại, và tiếp tục bị bách hại chỉ đơn giản là vì họ đã chiến đấu cho công lý.

Để kết luận, Đức Thánh Cha nói:

Tám Mối Phúc Thật đại diện cho “một chương trình sống” chính Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta. Tuy đơn giản nhưng rất cam go. Nếu chúng ta muốn tìm kiếm thêm, Chúa Giêsu còn chỉ cho chúng ta một điều khác đã được viết trong Tin Mừng thánh Mat-thêu, chương 25: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”. Với Tám Mối Phúc Thật và Mat-thêu 25 – người ta có thể sống một đời sống Kitô hữu thánh thiện. [8] ./.