Lạy Thiên Chúa, giữa nơi đền thánh,
chúng con hồi tưởng lại tình Chúa yêu thương.
Danh thánh Chúa gần xa truyền tụng,
tiếng ngợi khen Ngài khắp cõi lừng vang ;
tay hữu Chúa thi hành công lý.
Thiên Chúa đã gửi tôi sang Ai-cập để cứu sống anh em.
Bài trích sách Sáng thế.
44 18 Bấy giờ, ông Giu-đa lại gần ông Giu-se và nói : “Thưa ngài, xin xá lỗi. Xin cho tôi tớ ngài được nói một lời thấu đến tai ngài. Xin ngài đừng trút cơn thịnh nộ xuống tôi tớ ngài : quả thật, ngài ngang hàng với Pha-ra-ô. 19 Ngài đã hỏi các tôi tớ ngài rằng : ‘Các người còn cha hay anh em nào không ?’ 20 Chúng tôi đã thưa với ngài : ‘Chúng tôi có cha già và một đứa em út, sinh ra lúc người đã già ; thằng anh cùng mẹ với nó đã chết, chỉ còn lại mình nó, nên người thương nó.’ 21 Ngài đã bảo các tôi tớ ngài : ‘Các người đưa nó xuống cho ta, để ta nhìn thấy nó tận mắt. 23b Nếu em út các người không cùng xuống với các người, thì các người sẽ không được gặp mặt ta nữa.’ 24 Vậy khi chúng tôi về với tôi tớ ngài, là cha của tôi, thì chúng tôi đã nói lại với người những lời của ngài. 25 Cha chúng tôi bảo : ‘Hãy trở lại mua ít lương thực về.’ 26 Chúng tôi trả lời : ‘Chúng con không thể xuống đó được. Nếu có em út cùng đi với chúng con, thì chúng con mới xuống ; vì chúng con không thể gặp mặt ông ấy, nếu em út không cùng đi với chúng con.’ 27 Tôi tớ ngài, là cha của tôi, nói với chúng tôi : ‘Các con biết rằng vợ của cha đã sinh cho cha hai đứa. 28 Một đứa đã lìa cha, và cha đã nói : Đúng là nó đã bị xé xác, và cho đến nay cha chẳng được nhìn lại nó. 29 Nếu các con đem cả đứa này đi xa cha, và nó gặp tai hoạ, thì các con sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải đau khổ mà xuống âm phủ.’”
45 1 Ông Giu-se không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông, nên ông kêu lên : “Bảo mọi người ra khỏi đây !” Khi không còn người nào ở với ông, ông Giu-se mới tỏ cho anh em nhận ra mình. 2 Ông oà lên khóc và người Ai-cập nghe được, triều đình Pha-ra-ô cũng nghe thấy.
3 Ông Giu-se nói với anh em : “Tôi là Giu-se đây ! Cha tôi còn sống không ?” Nhưng anh em không thể trả lời : thấy mình đối diện với ông, họ bàng hoàng. 4 Ông Giu-se nói với anh em : “Hãy lại gần tôi.” Họ lại gần. Ông nói : “Tôi là Giu-se, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. 5 Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây : chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em.”
Đ.Hãy nhớ lại những kỳ công Chúa thực hiện.
16Chúa cho nạn đói hoành hành khắp xứ,
làm cạn nguồn lương thực nuôi dân.17Chúa đã phái một người đi trước họ
là Giu-se, kẻ bị bán làm tôi.
Đ.Hãy nhớ lại những kỳ công Chúa thực hiện.
18Chân ông phải mang xiềng khổ sở,
cổ đeo gông nặng nề,19cho đến ngày ứng nghiệm điều ông tiên đoán
và ông được lời Chúa giải oan.
Đ.Hãy nhớ lại những kỳ công Chúa thực hiện.
20Nhà vua, vị thủ lãnh các dân thời đó,
truyền tháo cởi gông xiềng và phóng thích ông,21rồi đặt ông làm tể tướng triều đình,
làm chủ mọi tài sản hoàng gia.
Đ.Hãy nhớ lại những kỳ công Chúa thực hiện.
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Ha-lê-lui-a.
Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
7 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các Tông Đồ rằng : “Anh em hãy đi rao giảng : Nước Trời đã đến gần. 8 Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết trỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. 9 Đừng kiếm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng. 10 Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
11 “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 12 Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. 13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ đến với họ ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em. 14 Nếu người ta không đón tiếp và không nghe lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. 15 Thầy bảo thật anh em, trong Ngày phán xét, đất Xơ-đôm và Gô-mô-ra còn được xử khoan hồng hơn thành đó.”
Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy,
hạnh phúc thay ai trông cậy nơi Người.
Suy niệm:
Trước khi sai các Tông Đồ lên đường truyền giáo,
Thầy Giêsu đã dặn dò họ nhiều điều.
Họ được sai đến với ai: với những đồng bào của họ là người Israel.
Sau này họ mới được sai đến với dân ngoại, với mọi dân tộc (Mt 28, 20).
Họ đến để làm gì: rao giảng về Nước Trời gần đến,
chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết, khử trừ ma quỷ ra khỏi lòng người (c. 8).
Họ đến để đem lời chúc bình an cho những ai mở lòng lãnh nhận (c. 12).
Họ không nên mang theo những gì: tiền vàng, bạc hay đồng để giắt lưng,
bao bị để đựng đồ, hai áo để thay đổi, giày dép để bảo vệ đôi chân,
cả chiếc gậy vừa để đi đường xa, vừa đề phòng nguy hiểm (cc. 9-10).
Cách hành xử của họ cũng được Thầy nói rõ.
Họ làm mọi việc mà không đòi bất cứ điều gì để trả công.
“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (c. 8).
Họ đã nhận được Nước Trời như một món quà,
họ cũng muốn trao đi như một quà tặng.
Điều duy nhất họ mong là được người ta lo cho thức ăn, chỗ ở.
“Vì thợ thì đáng được nuôi ăn” (c. 10).
Khi nghe lời dặn dò của Thầy Giêsu,
chúng ta thấy ngay mẫu người tông đồ mà Thầy mơ ước.
Đó là con người bị cuốn hút bởi những bận tâm về Nước Trời,
nên siêu thoát khỏi mọi vướng bận trần tục.
Nước Trời phong phú và giàu có đủ làm họ mãn nguyện,
nên họ coi nhẹ chuyện ở, chuyện mặc, chuyện ăn.
Chính lối sống đơn sơ giản dị, thậm chí thiếu thốn của họ,
là một lời chứng về những gì trên cao.
Họ cũng phải chấp nhận mình có thể bị từ chối, không được đón tiếp.
Một thành, một làng hay một nhà có thể không chấp nhận Tin Mừng,
và họ phải khiêm tốn tìm đến nơi thuận lợi hơn (c. 14).
Các tông đồ thế kỷ 21 hẳn không thể sống theo nghĩa đen những lời trên đây,
nhưng cũng không được gạt bỏ tinh thần mà Đức Giêsu vẫn muốn ta giữ mãi.
Nhẹ nhàng, thanh thoát, khó nghèo, phó thác, không tính toán lợi danh,
gieo rắc niềm vui và an bình, chữa lành và giải phóng con người khỏi nô lệ.
Và trên hết là một lòng yêu mến Thiên Chúa nồng nàn,
và một lòng yêu thương cháy bỏng đối với đoàn chiên vất vưởng bơ vơ.
Đó vẫn là hành trang muôn thuở của người tông đồ qua mọi thời đại.
Thời nay người tông đồ được trang bị nhiều phương tiện hiện đại,
với những cơ sở vững vàng, với số vốn ổn định, với tri thức bằng cấp đầy đủ.
Những điều đó vẫn không khiến chúng ta bỏ rơi tinh thần của Thầy Giêsu.
Bởi lẽ mất tinh thần của Thầy, chúng ta chẳng còn là tông đồ nữa.
Thánh Phanxicô Assisi đã bị đánh động khi đọc đoạn Tin Mừng này.
Và ngài đã muốn đưa Giáo hội trở lại với lối sống nghèo khó.
Rất có thể việc truyền giáo của chúng ta ở châu Á chưa có kết quả
chỉ vì chưa có những tông đồ dám sống triệt để lời dặn dò của Thầy Giêsu.
Mà lời dặn dò của Thầy lại rất hợp với tinh thần của người châu Á.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”
(Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta)