Maximilian Maria Kolbe sinh năm 1894 tại Zduńska Wola, Ba Lan, trong một gia đình đạo đức nhưng nghèo khó. Khi còn nhỏ, một lần mẹ ngài than phiền: “Không biết rồi con sẽ làm nên trò trống gì nữa!” Câu nói ấy đã khiến cậu bé cầu nguyện tha thiết cùng Đức Mẹ để biết ý định Chúa dành cho mình. Trong một thị kiến, Đức Mẹ hiện ra, tay cầm hai triều thiên: một màu trắng – tượng trưng cho sự thanh khiết, và một màu đỏ – tượng trưng cho sự tử đạo. Khi Đức Mẹ hỏi cậu chọn triều thiên nào, cậu đáp: “Con chọn cả hai.” Đức Mẹ mỉm cười và biến đi.
Năm 16 tuổi, Kolbe gia nhập Dòng Phanxicô tại Lviv. Ngài xuất sắc đạt học vị tiến sĩ triết học và thần học, đồng thời say mê khoa học, từng phác họa cả mô hình tàu hỏa tiễn. Năm 24 tuổi, ngài thụ phong linh mục và xác định mục vụ chính: chống lại sự lãnh đạm tôn giáo đang lan rộng.
Ngài sáng lập Đạo binh Vô Nhiễm (Militia Immaculatae) với mục tiêu chiến đấu chống lại ma quỷ bằng đời sống đạo đức, cầu nguyện, lao động và chấp nhận đau khổ. Để truyền bá lòng sùng kính Đức Mẹ, ngài xuất bản tạp chí Hiệp sĩ Vô Nhiễm, thành lập Thành phố Vô Nhiễm (Niepokalanów) – cộng đoàn 700 tu sĩ, và mở một tu viện khác tại Nagasaki, Nhật Bản. Dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria, cả Đạo binh và tạp chí của ngài đều đạt đến con số hàng triệu thành viên và ấn bản.
Khi Thế chiến II bùng nổ, Ba Lan bị Đức quốc xã xâm chiếm. Năm 1939, Niepokalanów bị đánh bom, ngài cùng các tu sĩ bị bắt nhưng được trả tự do vào ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Năm 1941, ngài lại bị bắt và đưa vào trại tập trung Auschwitz.
Tháng 7 năm 1941, một tù nhân bỏ trốn. Cai ngục ra lệnh chọn 10 người chết thay làm gương răn đe. Khi một người bị chọn kêu lên: “Ôi, vợ con tôi!”, Cha Kolbe tiến lên và nói: “Tôi xin chết thay cho ông ấy.” Cai ngục hỏi: “Mày là ai?”, ngài bình thản đáp: “Tôi là linh mục Công giáo.”
Cha Kolbe cùng 9 người bị nhốt vào hầm tối, bỏ đói cho đến chết. Không một tiếng than van, các tù nhân hát thánh ca. Vào chiều lễ vọng Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, khi chỉ còn bốn người sống sót, tên cai ngục tiêm axít carbolic để kết liễu họ. Cha Kolbe qua đời trong tư thế cầu nguyện. Thi hài ngài bị thiêu cùng các bạn tù.
Năm 1971, ngài được Đức Giáo hoàng Phaolô VI phong chân phước, và năm 1982, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong ngài hiển thánh, ca ngợi ngài như “Tử đạo của Đức Ái”.